Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An (tiếp theo)

III. THAM GIA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975, CHIẾN CÔNG CỦA TRUNG ĐOÀN TRONG CHIẾN DỊCH XUÂN HÈ Ở TRỊ - THIÊN
Tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh Quân khu Trì - Thiên giao nhiệm vụ cụ thể cho Trung đoàn pháo binh 16:
1. Chi viện cho các trung đoàn bộ binh 4, 6, 271 đánh chiếm các mục tiêu quy định và bảo vệ các khu vực phòng thủ trọng điểm.
2. Kiềm chế và tiêu diệt các trận địa pháo binh địch có thể nguy hại đến hành động của bộ binh.
3. Đánh phá hậu cứ (kho xăng, đạn) và các sở chỉ huy trung, lữ, sư đoàn địch.
4. Tiêu diệt xe tăng, xe bọc thép phản kích lấn chiếm của địch vào tuyến phòng thủ hoặc sâu trong hậu phương của ta.
5. Chuẩn bị sẵn sàng 2 đại đội pháo cỡ lớn (112 và 130 ly) đánh các mục tiêu trọng yếu nằm sâu trong lòng địch khi có thời cơ.
6. Tổ chức huấn luyện cho 2 đai đội vũ trang công tác và 1 lực lượng khoẻ tham gia công tác đột xuất của quân khu, 1 lực lượng dùng pháo dịch đánh địch.
7. Tham gia cùng các đơn vị bạn bảo vệ vùng Pa Puy, Củng Cáp đánh địch đổ bộ phía sau, truy lùng thám báo, biệt kích và bắt giặc lái.
8. Bồi dưỡng huấn luyện cho một số phân đội chỉ huy của Trung đoàn pháo binh 223 dùng pháo cao xạ đánh mục tiêu trên mặt đất.
9. Bảo quản giữ gìn, sử dụng, quản lý tốt trang bị vũ khí, khí tài kỹ thuật, phương tiện vật chất.
10. Tích cực tranh thủ xây dựng huấn luyện đơn vị vững mạnh toàn diện tăng gia sản xuất tự túc tiết kiệm và tham gia xây dựng vùng giải phóng.

Thứ Hai, 17 tháng 10, 2011

Sấm sét' chiến trường (kỳ 6)

Xuất phát từ bề dày truyền thống “chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng” và nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo, pháo binh Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, góp phần bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
 (Đất Việt) Kỳ 6: Bước tiến vượt bậc
 Trong buổi trao đổi với Đất Việt về xu hướng pháo binh thế giới và tiềm lực của pháo binh Việt Nam, Đại tá Bùi Xuân Mai, người từng gắn bó với binh chủng pháo binh 25 năm, cho biết: Thời gian qua, pháo binh Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, luôn luôn là hỏa lực chính của lục quân Quân đội Nhân dân Việt Nam.

'Sấm sét' chiến trường (kỳ 5)

Sức mạnh của pháo binh đã được gia tăng đáng kể nhờ những bước cải tiến về đạn, và hứa hẹn còn ghê ghớm hơn nữa với sự xuất hiện của pháo điện từ, pháo laser trong tương lai.
Xa và mạnh
Pháo binh ngày nay được ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao tầm bắn và uy lực của quả đạn. Để vươn dài tấm bắn, các nhà kỹ thuật quân sự thường tìm cách kéo dài nòng pháo để lợi dụng hiệu suất của thuốc phóng cao nhất. Nhưng đổi lại, pháo cồng kềnh, cơ động kém.
 Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ dùng pháo tự hành M107 lắp pháo nòng dài 175mm có trọng lượng gần 30 tấn, tuy bắn xa 34km nhưng độ chính xác thấp, tốc độ bắn nhanh nhất... 1 phát/phút.
 

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

'Sấm sét' chiến trường (kỳ 4)

Trong khi pháo tự hành Mỹ mờ nhạt với những bước tiến chậm chạp thì các đồng nghiệp Tây Âu lại tạo ra nhiều sản phẩm mang tính đột phá.
>> Kỳ 1: Dàn đồng ca đỏ
>> Kỳ 2: Dấu ấn riêng của pháo phản lực Mỹ
>> Kỳ 3: Đại bác trên bánh xích

(Đất Việt) Kỳ 4: Cuộc đua "tam mã"

Biến cũ thành mới

Nếu pháo phản lực Mỹ đã tạo dựng chỗ đứng vững chắc trong lực lượng pháo binh đồng minh Tây Âu, pháo tự hành của nước không những chẳng tạo dấu ấn nào mà còn có nguy cơ bị loại bỏ dần. Ngày nay, trong biên chế pháo binh Lục quân Mỹ chỉ duy trì một loại pháo tự hành là M109A6 Paladin, được thiết kết dựa vào mẫu M109 ra đời từ những năm 1960.

'Sấm sét' chiến trường (kỳ 3)

Một số hạn chế không thể “hóa giải” của pháo phản lực trong điều kiện tác chiến hiện đại chính là khoảng trống để những cỗ pháo 1 nòng, nhất là pháo tự hành lấp đầy.
>> Kỳ 1: Dàn đồng ca đỏ
>> Kỳ 2: Dấu ấn riêng của pháo phản lực Mỹ

(Đất Việt) Kỳ 3: Đại bác trên bánh xích

“Trăm hoa đua nở”

Đã có lúc, giới quân sự đánh giá pháo phản lực (pháo đa nòng) hoàn toàn thay thế pháo binh truyền thống. Tuy nhiên, thực tế chiến trường chưa bao giờ loại bỏ được loại vũ khí này bởi ưu điểm về hỏa lực mạnh, độ chính xác cao, việc sử dụng và bảo quản đơn giản, thích hợp với nhiều yêu cầu chiến thuật… Do đó, từ những năm 1960, vị trí của những cỗ pháo 1 nòng được phục hồi và chú trọng phát triển, đặc biệt là pháo tự hành, được coi là những khẩu đại bác được đặt trên bánh xích.

'Sấm sét' chiến trường (kỳ 2)

Không nhiều chủng loại như Nga, nhưng pháo phản lực Mỹ tạo ra dấu ấn riêng với uy lực mạnh không kém cùng độ chính xác cao.

>> Kỳ 1: Dàn đồng ca đỏ

(Đất Việt) Kỳ 2: Dấu ấn riêng

‘Độc nhất vô nhị’ trong lục quân Mỹ
Ra đời cùng thời với cơn lốc BM-30 Smerch, hệ thống pháo phản lực phóng loạt M270 là thiết kế gần như duy nhất trong pháo binh Lục quân Mỹ, được sử dụng vào các nhiệm vụ chế áp, cô lập và phá hủy mục tiêu đối phương, có nhiều điểm phù hợp với chiến tranh hiện đại.


Thay vì sử dụng ống phóng cố định, M270 có thiết kế kiểu module, đạn rocket được chứa trong container có thể tháo lắp. Nhờ vậy, công việc bảo quản trở nên đơn giản, thời hạn sử dụng của đạn kéo dài tới 10 năm, tiết kiệm thời gian khi nạp và tái nạp (5-10 phút), trong khi BM-30 mất khoảng 30 phút.

Hệ thống pháo phản lực phóng loạt M270 đặt trên khung thân xe chiến đấu bộ binh M2 Bradley. Mỗi xe phóng mang được 2 container, mỗi container chứa chứa 6 quả đạn rocket cỡ 240mm. Một xe M270 khai hỏa sẽ phóng 8.000 đầu đạn (nhỏ) trong 60 giây với tầm bắn khoảng 32km.

'Sấm sét' chiến trường (kỳ 1)

Những cải tiến liên tục, đáp ứng đòi hỏi trong chiến đấu giúp pháo binh giữ vị trí quan trọng, là “nắm đấm hỏa lực” trong tấn công và phòng thủ.

 Kỳ 1: Dàn đồng ca đỏ
Hiệu quả chiến đấu của dàn pháo “Cachiusa” nhanh chóng át đi tiếng cười chế giễu và khiến giới quân sự suy nghĩ nghiêm túc về loại vũ khí mà đến nay, ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên chiến trường.

Uy lực bất thình lình

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, dù pháo phản lực của Liên Xô hay các nước phương Tây đã phát triển với nhiều thiết kế hiện đại, mang nhiều tên gọi khác nhau, nhưng những người ngoại đạo vẫn thường nhận diện chúng với cùng 1 tên gọi “Cachiusa”.

“Thương hiệu” này gắn liền với chiến công đầu của pháo binh Liên Xô tập kích phát xít Đức tại Orsha (Belarus), ngày 7/7/1941. Chỉ với 7 xe phóng, trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, toàn bộ nhà ga với các đoàn tàu tiếp tế bị phá hủy hoàn toàn.

Những tên phát xít còn sống sót thì bàng hoảng không hiểu “sấm sét” đã giáng xuống từ đâu. Sự khủng khiếp của Cachiusa và tiếng rít đặc trưng khi khai hỏa sau này được lan truyền trong hàng ngũ quân phát xít với biệt danh “Dàn đồng ca của Stalin”.
Hỏa tiễn Cachiusa khai hỏa.

Trên thực tế, Liên Xô đã thử nghiệm loại vũ khí mới này từ năm 1938. Tuy nhiên, độ tản mác cao, tầm bắn thấp (5,5km) thời gian nạp đạn lâu (24 viên/50 phút)… khiến giới tướng lĩnh Liên Xô xem thường pháo phản lực.

Thế nhưng, trong bối cảnh sự phát triển pháo binh dường như tới hạn, tầm xa và uy lực như đại pháo Gustav hay Paris Gun luôn đi kèm với sự nặng nề, chậm chạp thì khả năng cơ động, và tốc độ bắn lại trở thành yếu tố đột phá.

Chính vì vậy, Cachiusa đã dành được cơ hội thể hiện và cũng từ đây, vị thế của pháo phản lực cùng chiến thuật “bắn và chuồn” được xác lập.

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2011

Sự hồi sinh của pháo binh

Sự ra đời của đạn pháo có điều khiển đã giải quyết bài toán hóc búa ở tầm bắn trên 40km của pháo binh truyền thống.
ĐVO) Khi chưa có đạn pháo có điều khiển, nhiệm vụ bắn chính xác các mục tiêu trên 40km thực sự là bài toán khó của pháo binh truyền thống. Bên cạnh đó, sự phát triển rầm rộ của công nghệ tên lửa khiến lực lượng này càng bị “lu mờ”.
Ngoài hạn chế về tầm bắn, pháo binh truyền thống sử dụng đạn pháo không có điều khiển khiến có độ tản mát rất cao khi tác xạ, ẩn chứa nguy cơ đối với thường dân và các công trình dân dụng trong tác chiến đô thị.
Dường như, tầm bắn với đạn pháo truyền thống có lẽ đã tới hạn và không thể xa hơn được nữa. Thực tế, các cường quốc quân sự như Nga, Mỹ hầu như không đầu tư phát triển các loại pháo mới. Đã có những ý kiến cho rằng, “ngày tàn” của pháo binh truyền thống đã đến, cũng như những gì đang xảy ra đối với lực lượng tăng - thiết giáp.
Tuy nhiên, pháo binh vẫn là lực lượng chi viện hỏa lực không thể thiếu cho bộ binh trên chiến trường. Điển hình, trên chiến trường Libya, pháo binh vẫn là lực lượng nắm quyền chủ động.

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Giáo dục quốc phòng: Tác chiến không hải trong chiến tranh hiện đại

Các cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới là minh chứng rõ ràng nhất sự quyết định thành bại của tác chiến đường không trong chiến tranh hiện đại.
Việc sử dụng các máy bay chiến đấu với nhiều tính năng ưu việt mang lại khả năng dành chiến thắng nhanh chóng cho các quốc gia tấn công: có thể triển khai lực lượng quân sự, gồm cả phương tiện cơ giới vào chiến trường trong thời gian tính bằng giờ; hoặc tấn công chính xác các mục tiêu trọng yếu từ tầm xa trong thời gian ngắn hoặc hỗ trợ hữu hiệu cho lục quân từ trên không...

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

Hệ thống hỏa lực hạng nặng Buratino

VietnamDefence - Hệ thống phun lửa hạng nặng TOS-1 Buratino là hệ thống rocket phóng loạt dùng để tiêu diệt sinh lực, xe bọc thép nhẹ và xe ô tô đối phương bằng các quả đạn phản lực mang đầu đạn nhiệt áp và cháy.

TOS-1 Buratino sử dụng khung gần xe tăng Т-72, với container vận chuyển-kiêm ống phóng chứa 30 rocket không điều khiển mang đầu đạn nhiệt áp hoặc gây cháy, đặt trên một bệ quay tròn.


1 xe chiến đấu và 1 xe vận chuyển-tiếp đạn

Hãng thiết kế và sản xuất:
GUP “Nhà máy chế tạo máy vận tải Omsk” (OZTM)

Tính năng kỹ-chiến thuật: Cỡ nòng, mm: 220;
Trọng lượng tên lửa, kg: 175; 
Tầm bắn, m: 400-6.000;
Phạm vi sát thương: 1 km2 (bằng đạn cháy) và 2 km2 (bằng đạn nhiệt áp);

Xe chiến đấu:

Trọng lượng xe chiến đấu, tấn: 46;
Kích thước, chiều dài x chiều rộng x chiều cao, m: 6,86 x 3,46 x 2,6
Tốc độ tối đa của xe chiến đấu, km/h: đến 65; Kíp xe, người: 3.
TOS-1 Buratino (Yevgeny Ivanov)

Thành phần hệ thống:






Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011

Những loại vũ khí hàng đầu trong tương lai (2)

6. Tên lửa hạt nhân
Tên lửa hạt nhân có khả năng mang đến sự hủy diệt khủng khiếp đối với bất kỳ mục tiêu nào trên Trái Đất, tạo ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự.

Những loại vũ khí hàng đầu trong tương lai (1)

Vũ khí vũ trụ, vũ khí laser sẽ là một trong những lựa chọn ưu tiên hàng đầu cho chiến tranh tương lai. Với ưu điểm về sức mạnh hủy diệt, tốc độ và tầm hoạt động các loại vũ khí này sẽ được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm phát triển, đặc biệt là các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao.
Sau đây là một số mẫu vũ khí có thể sẽ chiếm ưu thế nếu xảy ra chiến tranh trong tương lai:

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

Cachiusa: 70 năm, vẫn "chạy" tốt

(GDVN) - Hỏa lực bắn giàn Kachiusa lần đầu tiên được Hồng quân Liên Xô sử dụng vào ngày 14 tháng 7 năm 1941 trong một trận chiến với quân phát xít Đức gần thành phố Orsha, tỉnh Vitebsk, thuộc Belarus.
Cuộc tấn công bất ngờ bằng một loại vũ khí mới có sức công phá mạnh mẽ của Hồng quân Liên Xô đã giáng một cú đánh mạnh vào Quân đội Đức Quốc xã khiến chúng hoàn toàn bị mất tinh thần và khiến tình báo Đức mất nhiều tháng sau đó vẫn không thể xác định được đó là loại vũ khí gì.
Hơn 10.000 hệ thống phóng tên lửa và hơn 12 triệu quả tên lửa Kachiusa đã được sản xuất trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 1941 tới tháng 12 năm 1944.
Theo đánh giá của nhiều nhà sử học, chính hỏa tiễn Kachiusa đã đóng vai trò quyết định trong nhiều trận chiến quan trọng của cuộc chiến tranh Vệ quốc và chiến thắng của Liên Xô trước phát xít Đức.
Trải qua 70 năm tồn tại và phát triển, hỏa tiễn Kachiusa vẫn giữ vai trò quan trọng trong lực lượng vũ trang Nga góp phần bảo vệ Tổ quốc. đã được cải tiến rất nhiều, trở nên cơ động và dễ sử dụng với sức công phá lớn hơn gấp nhiều lần.
Hệ thống phóng tên lửa BM-21 Grad (Hail) của Nga được coi là hậu duệ trực tiếp của Kachiusa. Hệ thống tên lửa này hoạt động trên nguyên tắc tương tự như nguyên mẫu huyền thoại của chúng.
Tuy nhiên, tiềm lực chiến đấu của BM-21 Grad đã được mở rộng đáng kể.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Đức Pưn nhày

Đại đội trưởng Đức "pưn nhày"

QĐND  - Mùa khô năm 1972, trên chiến trường Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Quân giải phóng Lào mở chiến dịch giải phóng ngã ba Xa-la-phu-khun, đây là giao lộ con đường 7B từ Việt Nam sang phía đông gặp Đường 13, là huyết mạch nối từ Viêng-chăn lên Luông-phra-băng. Tư lệnh mặt trận nước bạn là Xi-la-vắt hợp đồng với Quân tình nguyện Việt Nam, yêu cầu hiệp đồng chi viện về hỏa lực, nhấn mạnh “Đây là một mặt trận độc lập của bộ đội Pa-thét Lào, mong hỏa lực của Quân tình nguyện Việt Nam tập trung mạnh để chúng tôi đánh thắng!”. Phía Quân tình nguyện Việt Nam tham gia gồm một số binh chủng kỹ thuật: Một đại đội hai chiếc xe tăng T-54, một đại đội cối 2 khẩu 156,7mm, hai đại đội súng máy cao xạ gồm 4 khẩu 12,7mm, công binh… Riêng về lực lượng pháo binh, bạn xin đích danh Đại đội 9 (Tiểu đoàn 42) với 4 khẩu lựu pháo 122mm, Tư lệnh bạn nhấn mạnh yêu cầu “đồng chí Đức pưn nhày” đích thân chỉ huy. Theo tiếng Lào thì “pưn nhày” là pháo lớn, pháo binh.  Đại đội 9 từng tác chiến lâu năm trên địa bàn này, nên có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, đặc biệt là kinh nghiệm hợp đồng tác chiến với bạn. Lực lượng chủ lực bạn gồm các đơn vị bộ binh: Tiểu đoàn bộ binh 701 Anh hùng là chủ công, và các Tiểu đoàn bộ binh 13, 705, đại đội cối 81mm...
Phía địch chiếm đóng và khống chế khu vực ngã ba này khoảng một lữ đoàn bộ binh, đại đội pháo 105mm, sân bay trực thăng, ngoài ra không quân địch có các máy bay ném bom T-28, trinh sát L-19 hoạt động hỗ trợ suốt ngày đêm. Địch tập trung chủ yếu ở cao điểm Luông-chay-nhày, trên có Sở chỉ huy của chúng và đóng trên các cao điểm ngoại vi Phu-sủng, Ngã ba Xa-la-phu khun, Băng-ga-lô.
Mục tiêu chính trận đánh mở màn sẽ là đỉnh Luông-chay-nhày, đồng thời mũi tiến công phụ đánh lên Phu-sủng, tiến tới phát triển chiếm toàn bộ ngã ba Xa-la-phu-khun. Đại đội 9 của đồng chí Đức nhận nhiệm vụ quan trọng là pháo kích vào Luông-chay-nhày, vừa là hiệu lệnh mở màn chiến dịch, vừa yểm trợ bộ binh bạn vận động tấn công.
Cựu chiến binh Đức “pưn nhày”.
Đêm 27-12-1972, Đại đội 9 bắt đầu hành quân từ Mường Sủi đến chiếm lĩnh trận địa. Một tình huống không bất ngờ nhưng vô cùng khó khăn là địch gài dày đặc các loại mìn trên quãng đường 7B tới ngã ba, cả loại mìn chống bộ binh lẫn mìn chống tăng. Đã có chiếc xe tăng của ta trúng mìn, một xe kéo pháo của Đại đội 9 cũng bị mìn, khẩu đội trưởng hy sinh, một pháo thủ bị thương. Loại mìn chống tăng của địch toàn bằng nhựa, nặng 20kg, nếu chỉ dò bằng máy thôi sẽ không phát hiện được, nên mặc dù công binh khắc phục suốt ngày hôm sau, song con đường chưa thể thông được. Mặt khác, địch thấy có dấu hiệu ta chuyển quân nên máy bay trinh sát L-19 và máy bay ném bom T-28 đánh xăm xoi, đồng thời pháo địch từ ngã ba bắn ra với cường độ lớn. Trước tình hình khẩn trương, lúc 20 giờ, Đại đội 9 lập tức triển khai 4 khẩu pháo ngay ven vệ đường. Pháo và pháo thủ không có hầm, được ngụy trang rất kỹ, một bất ngờ lớn cho máy bay trinh sát địch. Như vậy, tầm bắn của 4 khẩu pháo đến mục tiêu là 5km, vẫn trong phạm vi hiệu quả cao của lựu pháo 122mm. Đêm 29-12, liên lạc bằng vô tuyến điện với đài chỉ huy thông suốt, công tác chuẩn bị tốt. Đài chỉ huy pháo cũng bố trí bí mật chỉ cách địch 900m.
Đúng 4 giờ 25 phút ngày 30-12, tiếng pháo mở màn chiến dịch bắt đầu. Cả 4 khẩu cùng bắn cấp tập vào hai mỏm dãy Luông-chay-nhày. Đạn chụm mục tiêu, căn cứ địch bốc cháy lớn. Bắn được 10 phút thì một khẩu bị hỏng khóa nòng, còn lại 3 khẩu vẫn tiếp tục bắn, bạn yêu cầu pháo ta chuyển làn để yểm trợ bộ binh tấn công. Đến 6 giờ thì địch rút bỏ Phu-sủng, đến 12 giờ trưa thì địch bỏ chạy khỏi các cao điểm Luông-chay-nhày, Tiểu đoàn bộ binh 701 bộ đội Pa-thét Lào xông lên quét địch khỏi điểm cao, đến 14 giờ thì bạn làm chủ toàn bộ cụm cứ điểm quan trọng này. Phát huy lợi thế, mặc dù trời về chiều tối, lúc 18 giờ, Đại đội trưởng Đức lập tức rời Sở chỉ huy lên cao điểm Luông-chay-nọi vừa chiếm được, tiếp tục chỉ huy pháo bắn đuổi địch trên đường rút chạy, đồng thời uy hiếp địch ở ngã ba Xa-la-phu-khun. Sang ngày 1-1-1973, 3 tiểu đoàn bộ binh của bạn là Tiểu đoàn 2, 17, 705 đánh đuổi địch về phía Viêng-chăn, làm chủ ngã ba huyết mạch này. Đại đội 9 pháo binh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Với đại đội trưởng Đức, trải qua 27 năm quân ngũ, có 7 năm trên chiến trường Lào và 3 năm trên chiến trường Cam-pu-chia. Vốn trưởng thành từ chiến sĩ pháo binh, anh luôn chỉ huy đơn vị tận dụng mọi cơ hội tấn công địch, xứng đáng danh hiệu là tiếng pháo lệnh mở màn chiến dịch. Năm nay 65 tuổi, cựu chiến binh Đức vẫn hoạt động tích cực trong công tác Ban liên lạc quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào.
Bài và ảnh: Cao Đắc Trung

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

Tổ quốc kiêu hùng

Có một thời
Cùng bạn bè, tôi há miệng thật to
Hát vang bài ca tôn vinh người lính Bát lộ quân
Vượt núi Nhị lang
Vào giải phóng Tây tạng.
Và bây giờ tôi biết rằng ngày đó
Cuộc xâm lăng
                  được ngụy trang
                                          bằng mỹ từ giải phóng
Dân tộc này đã đè nát dân tộc kia !
***
Có một thời
Khi đất nước phân chia
Chúng tôi được ưu ái ăn miếng cơm nước người ngon ngọt
Mặc áo bông
Có cổ lông
ấm áp
Trong mùa đông Trung hoa lạnh buốt
Nằm giường ấm nệm êm
Khi cả đất nước trường chinh đánh Mỹ
Và bây giờ tôi biết rằng: “Đồng chí”
Cũng là mỹ từ để nhét vào tay ta vũ khí
Đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng
Trong những toan tính
của người hùng
họ Mao!
***
Có một thời hăng hái vượt Trường sơn
Khoác Ak lên đường đánh giặc
Tôi mặc áo Tô châu
Củ cải khô, ca la thầu,
Và lương khô phương Bắc
Cả đại bác
Bông băng để thấm máu người lính Việt
Đều ghi rõ hàng mếch in chai nơ
Để bây giờ
Đòi lại bằng chủ quyền đất nước.
Mặt nạ rơi ra
Từ những ngày lũ quân xâm lược
Đâm dao sau lưng từ biên giới Khơme
Và hèn nhát xua quân vượt biên đánh trộm
Máu em tôi, bạn tôi lai đổ vì những người được gọi là bạn bè.
Và bây giờ
Tôi lại lắng nghe
Tiếng sóng vỗ ầm ào từ biển
Tổ quốc tôi  phía cuối trời xa
Thân thương lắm một vùng đảo nhỏ
Ngọt ngào Hoàng sa, ngọt ngào Trường sa
Mảnh đất ông cha
 Để lại
Đang vươn mình chống chọi phong ba
Đến từ những người
Vẫn luôn mồm nói đến tình đồng chí.
***
Tổ quốc bốn ngàn năm.
Và cũng  bốn ngàn năm ý chí
 Quật  cường
 Anh dũng
Kiên trung
Sẽ lại đứng lên
Một lần nữa. Kiêu Hùng.
Hà Nội -  Viết trong những ngày biển Đông nổi sóng.

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2011

Những đại pháo khủng khiếp trong lịch sử (phần 1)

Một trong những vũ khí hủy diệt mạnh nhất mà loài người đã được chứng kiến chính là các khẩu đại pháo khổng lồ.

Đại pháo lớn nhất thế giới được nước Đức Phát xít chế tạo, dưới mệnh lệnh của "kẻ nguy hiểm nhất lịch sử nhân loại", Adolf Hitler.

Vai trò của pháo binh trong chiến tranh hiện đại (Phần 2)

Bài tham khảo từ Diễn đàn GDQP
Sau chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ đã phải phân tích lại mọi ưu-khuyết điểm của từng hệ thống võ khí pháo binh đã được xử dụng trên chiến trường Đông Nam Á và tìm thấy ngay những nhược điểm to lớn của hệ thống pháo dã chiến tầm trung bình M-114 155 mm trong lực lượng pháo binh của mình (đòi hỏi một đội pháo thủ lớn đến 11 người, lại có tầm tác xạ yếu kém so với pháo tầm trung của đối phương).
Để cung cấp một hệ thống pháo 155 mm dã chiến có tính hiệu lực cao hơn cho các sư đoàn bộ binh tác chiến nhanh và nhẹ thuộc Lực Lượng Phản Ứng Nhanh (RDF = Rapid Deployment Force) của quân đội Mỹ, một lực lượng phản ứng chiến lược được thành lập sau khi Hoa Kỳ rút ra khỏi Việt Nam hầu có thể đáp ứng lại trước những biến chuyển tình hình chính trị lẫn quân sự trên thế giới, hệ thống pháo dã chiến cơ động tầm trung M-198 155 mm được phát triển và đi vào hoạt động trong các đơn vị pháo binh cấp sư đoàn đến quân đoàn của quân đội Hoa Kỳ, đặc biệt là các sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thuộc Marine Corps cũng như 2 sư đoàn Nhảy Dù trừ bị chiến lược (82 và 101) thuộc Quân Đoàn 24 từ đầu thập niên 1980.
Chỉ nặng chừng 7 tấn (nghĩa là có thể di chuyển nhanh bằng trực thăng loại CH-46, 47 Chinook) và có khả năng tác xạ xa đến 22 km với loại đạn pháo thông thường ở nhịp bắn 4 viên / một phút, pháo dã chiến M-198 rỏ ràng hơn hẳn loại cổ điển M-114 với tầm bắn yếu kém chỉ chứng 14-15 km. M-198 lại chỉ đòi hỏi một đội pháo thủ chừng 9 người (so với 11 người của loại M-114).
Pháo 155 mm M-198 có thể bắn nhiều loại đạn khác nhau. Lợi hại nhất vẫn là loại đạn nổ cao M-107 HE (High Explosive) được phát triển dựa trên những kinh nghiệm thu thập được với loại đạn Beehive (Tổ Ong) chống biển người (Human Waves) đã từng được xử dụng trên chiến trường Việt Nam. M-107 HE khi nổ tung ra vô số mảnh đạn sắt bén như dao, bay với vận tốc cực nhanh (5000-6000 m/giây !) tạo ra một khu vực sát thương rộng đến 100 m đường bán kính ! Với loại đạn RAP dùng hỏa tiển trợ lực, pháo M-198 có thể bắn xa đến 30 km.


Một khẩu pháo M-198 của TQLC Mỹ đồn trú ở Fallujah đang nhả đạn vào vị trí quân Iraq (2004)

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

Mỹ thử nghiệm lựu pháo mới XM1203 NLOS-C


(GDVN) – Mỹ đang tiến hành thử nghiệm một loại vũ khí tương lai mới – lựu pháo tự hành XM1203 None-Line of Sight Cannon (NLOS-C) cỡ 155 mm.

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Vai trò của pháo binh trong chiến tranh hiện đại



 (phần 1)
Trong quá khứ pháo binh thường được xưng tụng là « Vua Chiến Trường ». Hỏa lực công phá cực mạnh cộng với tầm tác xạ xa cũng như khả năng pháo tập trung từ nhiều vị trí khiến lực lượng pháo binh trở thành một thành phần không thể thiếu vắng được trong hợp đồng tác chiến hỗn hợp của các quân đội hiện đại ngày nay.
Pháo nòng dài M-46 / 130 mm với tầm bắn xa đến 27 km.

Một điểm tiêu biểu cho hỏa lực pháo binh ở vị thế tấn công cũng như ở vị thế phòng ngự là hầu như không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn tầm xa sát thương mong muốn.
Không một pháo thủ nào trên thế giới mà không mong ước là đơn vị pháo của mình được trang bị những khẩu pháo có khả năng bắn xa vượt ngoài tầm phản pháo của lực lượng pháo binh đối thủ. Mưa pháo vào vị trí địch mà không sợ bị bắn trả là ước muốn ngàn đời của họ nhà pháo ở khắp nơi trên thế giới.
Có nhiều phương cách để gia tăng tầm xa pháo kích. Và mỗi phương cách đều có những giới hạn của nó.
1.Hoặc là tăng cự ly nòng pháo từ 105 mm lên đến 130 mm, 152 mm, 155 mm, 175 mm, cho đến 203 mm (pháo với những cự ly này đều đã được cả hai bên lâm chiến xử dụng trong chiến tranh Việt Nam).
2.Hoặc xử dụng đạn pháo đặc biệt với sức đẩy phụ gọi là extended range artillery munition để gia tăng đạn đạo đến một mục tiêu xa hơn.
Pháo nòng ngắn M-114 / 155 mm với tầm bắn xa 15 km

Lấy thí dụ với khẩu pháo nòng ngắn 105 mm howitzers rất quen thuộc trên chiến trường Việt Nam. Với loại đạn căn bản thông thường, pháo 105 mm chỉ đạt tầm tác xạ hữu hiệu khoảng chừng 11 km. Xử dụng loại đạn cải tiến, tầm bắn của pháo 105 mm có thể tăng lên đến 18 km.
Pháo dã chiến 122 mm của Nga và Trung Quốc xử dụng những loại đạn khác nhau cũng đạt được những tầm bắn cải thiện tương tự như vậy : khoảng 16 km (với loại đạn thông thường) và khoảng 21 km (với loại đạn trợ lực).
Pháo dã chiến D-30 / 122 mm.
Với cự ly lớn hơn, pháo 130 mm của Nga có thể bắn xa đến 27 km, vượt hẳn tầm bắn của pháo nòng ngắn nâng cấp 155 mm của Mỹ được xử dụng trên chiến trường Việt Nam hơn 35 năm về trước.

Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 () - phía QĐNDVN gọi là « Chiến dịch Đường 9 Nam Lào ») đánh sang khu vực Hạ Lào vào năm 1971, lực lượng Sai gon được hỏa lực pháo yểm của pháo binh Quân Đoàn 24 Hoa Kỳ ở lại bên phần đất Việt Nam xử dụng đại pháo tự hành nòng dài M-107 / 175 mm bắn nạp 3 để có thể đạt đến
  tầm bắn xa khoảng chừng 32,7 km.
  Đối lại, khẩu đại pháo tự hành 2S7 (còn được gọi là phiên bản SO-203 hay là M-1975) với cự ly 203 mm của Nga, với nòng pháo còn dài hơn « Vua Chiến Trường » 175 mm M-107 của Mỹ, còn bắn xa hơn nữa : 37,5 km (với loại đạn miểng đầu nổ cao, HE-FRAG = High Explosive Fragmentation) hay bay xa hơn đến 47,5 km (với loại đạn hỏa tiển trợ lực đặc biệt RAP = Rocket Assisted Projectile) !

Pháo tự hành M-107 / 175 mm  tầm xa tác xạ lên đến 32 km
Tuy nhiên, trong chiến tranh hiện đại với độ cơ động cao ngày nay, việc tác xạ, dò tìm mục tiêu cũng như phản pháo với sự trợ lực của trang bị điện tử tân tiến, hoàn toàn đạt đến một điểm cao mới, nơi mà cuộc chạy đua giữa việc nâng cao cự ly nòng pháo cũng như cải tiến đạn pháo binh không thể kéo dài mải mà không nảy sinh những vấn đề kỷ thuật cũng như chiến thuật cần phải được giải quyết cũng như cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh chiến trường tương lai.
Pháo tự hành 2S7 / 203 mm  tầm bắn xa từ 38-47 km tùy theo loại đạn
2S7 / 203 mm là loại pháo cơ động có cự ly lớn nhất trong lực lượng pháo binh dã chiến của Quân Đội Nga cho đến nay

Thứ nhất, nâng cấp cự ly pháo cũng đồng nghĩa với việc gia tăng trọng lượng khẩu pháo. Và điều này dẫn đến việc giới hạn tính cơ động nhanh cần thiết để tránh hoả lực phản pháo của đối phương.
Thứ hai, bên cạnh độ công phá của đạn pháo, yếu tố tác xạ nhanh (được xác định qua số lượng đạn pháo rời nòng trong vòng một phút) cũng không kém phần quan trọng. Yếu tố này một phần được cải thiện qua tiến trình tự động hóa trong dây chuyền tác xạ « chỉnh pháo - nạp đạn – khai hỏa », một phần khác qua mức độ chuyên nghiệp của toàn đội pháo thủ : khả năng phối hợp trong toàn đội càng nhuần nhuyển chừng nào, thì hỏa lực tác xạ càng nhanh và nâng cao cái gọi là « mưa pháo » xuống mục tiêu chừng đó.
Thứ ba, pháo và đạn pháo căn bản vốn không rẻ. Pháo hiện đại cũng như đạn pháo cải tiến còn đắt hơn nữa. Ngay cả những quân đội « nhà giàu » như quân đội Mỹ hiện nay cũng phải tính toán rất kỷ trong ngân sách quốc phòng khi quyết định mua sắm trang bị pháo cho Lục Quân.

Pháo tự hành M-110 / A-1 nòng ngắn, 203 ly
Do đó, khuynh hướng phát triển pháo binh trong chiến tranh hiện đại ngày nay có thể được tập trung trên những chuyên mục chính sau đây :
● khả năng cơ động (mobility),
● mức độ công phá (power / rate of fire),
● khả năng tác xạ tầm xa và chính xác (maximum range of fire / precision).
 
(Sưu tầm từ internet)

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

Trung Quốc chơi rắn với Việt Nam trong các vấn đề lãnh thổ

Quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đang căng thẳng khi hai bên đưa ra những lý lẽ trái ngược nhau về sự cố một chiếc tàu tuần tra của Trung Quốc đã gây thiệt hại cho một chiếc tàu khảo sát của Việt Nam tại vùng biển nằm trong Biển Hoa Nam [Biển Đông] mà cả hai nước đều tuyên bố khẳng định chủ quyền.
Sự cố này được xem như là Trung Quốc có ý định kiểm soát vùng biển tranh chấp bằng cách mở rộng các hoạt động hàng hải ở Biển Hoa Nam và tận dụng sự tăng trưởng kinh tế và tầm ảnh hưởng quân sự của họ.
Việt Nam dường như đã đối phó lại những biện pháp gây hấn của Trung Quốc bằng cách kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Tranh chấp về Biển Đông rất có thể sẽ là một chủ đề lớn của tại cuộc gặp gỡ của các bộ trưởng quốc phòng và các chuyên gia quốc phòng của Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, các nước ASEAN và các nước châu Âu sẽ được tổ chức tại Singapore vào ngày 3 tháng 6 tới đây. Chủ đề này được chờ đợi được đưa ra thảo luận tại Diễn đàn Khu vực ASEAN vào tháng 7 tới, một dịp để thảo luận về vấn đề an ninh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Sự cố xảy ra vào sáng sớm ngày 26 tháng 5 khi một chiếc tàu của tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) đang khảo sát để tìm vị trí đặt mũi khoan thăm dò trữ lượng dầu mỏ và khí đốt ở ngoài khơi cách bờ biển tỉnh Phú Yên của Việt Nam khoảng 220 km, tức 120 hải lý.
Ba tàu tuần tra của Trung Quốc đã tiến đến gần chiếc tàu nói trên của Việt Nam và một trong số đó đã cắt đứt cáp thăm dò của chiếc tàu của Việt Nam rồi nhanh chóng rút lui khỏi hiện trường.
Đây là lần đầu tiên tàu tuần tra của Trung Quốc ngăn cản hoạt động của một chiếc tàu của Việt Nam, theo thông báo của Hà Nội. Bộ ngoại giao Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức một cuộc họp báo vào hôm 29 tháng 5 để phản đối Trung Quốc.  
“Đây là vi phạm nghiêm trọng nhất đối với lãnh hải của Việt Nam,” người phát ngôn của bộ ngoại giao, bà Nguyễn Phương Nga đã nói như vậy.
Bà Nga nói rằng sự cố nói trên đã xảy ra “hoàn toàn bên trong phạm vi” vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cách bờ biển 200 hải lý.
Hiện trường của sự cố nằm ở khoảng cách gần với bờ biển của Việt Nam hơn so với Quần đảo ở mạn phía bắc và Quần đảo lùi xa hơn về phía nam, cả hai quần đảo này đều được Trung Quốc tuyên bố khẳng định chủ quyền.
PetroVietnam đã chỉ trích Trung Quốc bằng từ ngữ họ gọi là “một hành động có dụng ý xấu.”
Tại một cuộc họp báo, ông Đỗ Văn Hậu phó tổng giám đốc PetroVietnam cho rằng “hành động cắt đứt cáp là có chủ định và được chuẩn bị trước,” khi ông nói rằng cáp nằm ở độ sâu 30 mét dưới mặt nước.
Hôm 27 tháng 5, chính phủ Việt Nam đã lên tiếng phản đối thông qua sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội.
Bộ ngoại giao Trung Quốc đã phản công lại vào ngày hôm sau khi nói rằng hiện trường của sự cố nằm trong phạm vi quyền hạn xét xử pháp lý của Bắc Kinh.
“Hành động đó là công việc giám sát bình thường,” bà phát ngôn viên Khương Du đã nói như vậy. “Chính Việt Nam đã phá hoại những lợi ích và các quyền tài phán của Trung Quốc.”
Tờ Thời báo Hoàn cầu, một tờ nhật báo bằng tiếng Anh trực thuộc tờ Nhân Dân Nhật Báo chính thống, đã đăng một bài xã luận vào hôm 30 tháng 5 nói rằng sẽ là ngây thơ nếu Việt Nam tưởng rằng có thể bắt Trung Quốc nhượng bộ những tuyên bố khẳng định chủ quyền.
Kể từ khi Trung Quốc trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự trên thế giới thì họ luôn có lập trường cứng rắn đối với những tranh chấp ở Biển Hoa Nam.
Lặp lại quan điểm nói trên, bản báo cáo của Cơ quan quản lý Đại dương của Trung Quốc viết rằng Trung Quốc nên chứng tỏ sức mạnh quân sự dồi dào của mình để lái tranh chấp lãnh thổ với các nước khác theo hướng có lợi cho mình.
Việt Nam và Philippine trên thực tế đã đi trước Trung Quốc trong việc kiểm soát những hòn đảo và vùng nước lân cận có tranh chấp, song Trung Quốc hiện đang ra sức tìm cách bắt kịp.
Hầu hết người Việt Nam đều coi sự cố nói trên là bước đi có chủ định của Trung Quốc nhằm làm nổi bật sự tồn tại của những tranh chấp ở Biển Hoa Nam cần thiết phải được giải quyết. Trung Quốc cũng đồng thời tăng cường tấn công bằng ngoại giao để giải quyết vấn đề tranh chấp.
Hồi tháng Tư vừa qua Trung Quốc đã cử Quách Bá Hùng [Guo Baixiong] và Từ Tài Hậu [Xu Caihou], cả hai đều là phó chủ tịch Quân ủy Trung Ương, và cả bộ trưởng quốc phòng Lương Quảng Liệt [Liang Guanglie], tới các nước ASEAN để kêu gọi một sự giải quyết ôn hòa những tranh chấp lãnh thổ liên quan đến Biển Hoa Nam.
Bước đi này nhằm mục đích ngăn chặn sự tái diễn trình trạng Trung Quốc bị cô lập trong vấn đề chủ quyền sau khi Mỹ ủng hộ các nước ASEAN trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ tại một Diễn đàn Khu vực ASEAN được tổ chức tại Hà Nội hồi tháng 7 năm ngoái.
“Bằng chính sách củ cà rốt và chiếc gậy, Trung Quốc đang cố gắng lấy lại vị thế đã mất,” một nguồn tin ngoại giao ở Bắc Kinh đã nói như vậy.
Việt Nam thì vẫn tiếp tục đề cao mối quan hệ với Mỹ và các nước khác.
Cuộc họp báo khẩn cấp của Bộ ngoại giao Việt Nam hôm 29 tháng 5 được xem như là nỗ lực của Việt Nam nhằm nhấn mạnh luận cứ của mình trong tranh cãi với Trung Quốc.
(Bài báo này được tổng hợp từ phóng sự của Kenji Minemura thường trú tại Bắc Kinh và Daisuke Furuta tại Băng Cốc.)

Pháo tự hành PZH-2000 : chuẩn mực của pháo binh hiện đại


Được đánh giá là một trong những loại pháo tự hành tốt nhất thế giới hiện nay, PZH-2000 thực sự là một chuẩn mực của pháo binh hiện đại
Pháo tự hành PZH-2000 được sản xuất bởi Tập đoàn Krauss-Maffei Wegmann (KMW), cùng với nhà thầu phụ chính là Rheinmetall Landsysteme.
Công việc sản xuất pháo tự hành PZH-2000 được bắt đầu vào năm 1996, hệ thống đầu tiên được giao cho Quân đội Đức vào năm 1998.
Đặc điểm kỹ thuật
Pháo tự hành PZH-2000 được phát triển trên cơ sở khung gầm của xe tăng Leopard-2A, sử dụng loại pháo L52 cỡ nòng 155mm do Rheinmetall Landsysteme sản xuất. Ngoài ra, pháo tự hành còn được trang bị súng máy MG3 7,62mm với cơ số 2.000 viên.
Kíp chiến đấu của pháo tự hành PZH-2000 gồm 5 người, chỉ huy, lái xe, pháo thủ và 2 người nạp đạn.
PZH-2000 có chế độ hoạt động tự động hóa rất cao, pháo sử dụng một hệ thống nạp đạn bán tự động. Một cánh tay nạp sẽ tra đầu đạn pháo vào nòng pháo, pháo thủ sẽ nạp liều phóng rời vào sau.
Hệ thống nạp đạn tự động kiểu ổ quay có thể chứa 60 đạn pháo, cùng với 228 liều phóng rời. Tầm bắn tiêu chuẩn của PZH-2000 là 30-35km, trên 40km nếu sử dụng đạn tăng tầm.

Hệ thống điều khiển bên trong pháo tự hành PZH-2000.
Hệ thống nạp đạn tự động kiểu ổ quay cho phép tăng tốc độ bắn.
Tốc độ bắn trung bình 10-13 viên/phút, PZH-2000 có một hệ thống tự quản lý vỏ đạn.
Chỉ huy được trang bị hệ thống quan sát toàn cảnh Leica PERI-RTNL 80, tích hợp khả năng quan sát ngày/đêm, máy đo xa laser.
Pháo thủ được trang bị hệ thống chỉ thị mục tiêu Leica PzF TN 80, tích hợp khả năng quan sát ngày đêm.
Hệ thống kiểm soát bắn được điều khiển bởi máy tính hiệu MICMOS, được cung cấp bởi hãng EADS, có khả năng nhận dạng và kiểm soát mục tiêu tự động.
Việc tính đường đạn do máy tính xử lý, hệ thống sẽ tự động hiệu chỉnh góc nâng của pháo phù hợp với khoảng cách đến mục tiêu.

Góc nâng của PZH-2000 tương đối lớn từ 3-60 độ, tháp pháo có thể quay 360 độ, do đó không bị hạn chế về góc bắn.
Hệ thống kiểm soát bắn của pháo tự hành dựa trên công nghệ MRSI, cho phép thay đổi quỹ đạo bắn ở loạt đạn tiếp theo để tăng độ chụm của đạn. Nhờ vậy, pháo tự hành PZH-2000 có khả năng bắn liên tiếp 5 viên đạn vào cùng một mục tiêu.
Hệ thống liên kết dữ liệu và chia sẽ mục tiêu cho phép nhiều khẩu pháo tự hành PZH-2000 cùng tấn công mục tiêu cùng lúc.

Sự phát triển nhanh chóng của các loại radar định vị pháo binh, cho phép xác định chính xác vị trí khai hỏa của PZH-2000. Do đó, nhanh chóng rời khỏi vị trí sau khi bắn là một yêu cầu quan trọng của pháo binh hiện đại.
Để đảm bảo không bị lộ vị trí bắn, PZH-2000 được thiết kế để có thể nhanh chóng “bắn - rút lui” với thời gian triển khai và thu hồi pháo chưa đầy 2 phút. Điều đó cho phép pháo tự hành PZH-2000 nhanh chóng rời khỏi mục tiêu sau loạt đạn đầu tiên.
PZH-2000 được bọc giáp rất tốt, giúp bảo vệ tổ lái trước mảnh đạn pháo, súng máy hạng nặng của đối phương, bom chùm từ 2 bên hông và phía trên.
Không chỉ vậy, PZH-2000 còn được trang bị hệ thống bảo vệ tổ lái trước tác nhân sinh, hóa học NBC, hệ thống báo cháy và dập lửa tự động.
Pháo tự hành PZH-2000 được trang bị động cơ diesel tăng áp MTU MT88, 8 xi lanh công suất 987 mã lực. Xe tự hành có khả năng vượt dốc 30 độ, chướng ngại vật cao 1m, tốc độ tối đa đạt 60km/giờ, tầm hoạt động 420km.

Việt Trung (theo Army-Technology, Topwar)

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

Ôn lại tiếng Lào

Tiếng Lào- Qúy vị còn nhớ không? Nếu có dịp thăm lại chiến trường xưa, hay đơn giản là rỗi rãi đi du lịch, biết một chút tiếng Lào sẽ là một lợi thế, xin mời ôn lại một số câu cần dùng.

Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011

Thông tin tìm liệt sỹ D3- E16 (1969-1970) Cánh đồng chum- Xiêng khoảng

Tôi nhận được một Email của thân nhân liệt sỹ: dang Ai <aihvtc@yahoo.com>  đề nghị giúp đỡ về trường hợp hy sinh của đồng chí Đặng văn BÚT, vậy tôi đăng lên blog cho mọi người biết, ai biết về trường hợp này thì đề nghị giúp đỡ cho gia đình liệt sỹ.


Kính gửi bác Trung!
Cháu đã đọc bài viết về lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 và các thông tin liên quan được đăng trên blog của các bác. Cháu được biết các bác đã thành lập câu lạc bộ pháo binh và thường xuyên tổ chức gặp mặt. Bố cháu cũng là bộ đội pháo binh thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 16, tham gia chiến đấu tại chiến trường xiêng khoảng - Lào và đã hy sinh ngày7/2/1970. Hiện nay gia đình cháu vẫn chưa tìm được mộ của bố cháu. Cháu rất hy vọng thông qua câu lạc bộ của các bác cháu có thể biết được các thông tin về phần mộ bố cháu là Đặng Văn Bút quê ở xã Vũ di- huyện Vĩnh tường- tỉnh Vĩnh phúc. Kính mong bác sẽ giúp cháu và gia đình có thể hoàn thành được tâm nguyện này. Cháu xin chân thành cảm ơn các bác!

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002 (tiếp theo)

Thực hiện chủ trương trên tháng 3 năm 1974, Quân khu lệnh cho trung đoàn dời Quảng Trị cơ động vào tây Thừa Thiên. Lãnh đạo chỉ huy chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, tổ chức toàn bộ đội hình hành quân. Xe pháo nặng, thiếu đồng bộ, qua chiến đấu bị hư hỏng chưa được sửa chữa, lại vượt qua địa hình hiểm trở, kẻ định thường dùng máy bay do thám, ném bom, thárn báo lùng sục hàng ngày làm cho đội hình hành quân gặp rất nhiều khó khăn áo liệt. Sông Mỹ Chánh, bến Ô Lâu, Rào Chắn, đèo Cô Bang, đèo 367, đường Hồ Chí Minh còn ghi nhiều dấu ấn hình ảnh cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn. Công tác đảng, công tác chính trị tu tưởng được coi trọng, đẩy mạnh tổ chức động viên sự cố gắng của mỗi người để hoàn thành nhiệm vụ, 45 ngày đêm trèo đèo vượt suối, lặn lội hy sinh, trung đoàn đến vị trí tập kết mới, người và trang bị an toàn. Đơn vị tiếp tục củng cố. Cán bộ trung đoàn nhanh chóng làm việc với cơ sở địa phương xây dựng, luyện tập theo phương án và từng bước hoàn chỉnh các phương án. Đồng thời thực hiện chỉ thị của Bộ về việc bàn giao 1 tiểu đoàn cho đơn vị bạn. 

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011

Một số kinh nghiệm du lịch Lào

Sau đây là một số kinh nghiệm du lịch Lào được sưu tầm và tổng hợp trên mạng Internet. ( số liệu được nêu trong bài chưa được cập nhật)
Thời gian của chuyến đi 
Nên đi ít nhất là 5 ngày, vừa đủ để bạn có thể tới những điểm đến nổi tiếng nhất ở Lào như Cánh đồng Chum ở Xiêng Khoảng, cố đô LuangPrabang, thị trấn Vang Viêng và thủ đô Vientiane. Nếu có nhiều thời gian hơn, bạn có thể tới Nam Lào hay Thượng Lào, để khám phá thêm nhiều nét kỳ thú ở quốc gia này.
Người Việt Nam đến Lào không cần visa nên bạn chỉ cần có hộ chiếu là có thể xách balô lên đường.
Tiền tệ: 
Người Lào khá hiền lành và dễ tính, ở các địa điểm du lịch, họ chấp nhận sử dụng nhiều loại tiền khác nhau như tiền Kíp (Lào), Baht (Thái), USD (Mỹ) và thậm chí ở những nơi có nhiều người Việt sinh sống, bạn còn dễ dàng tiêu tiền VND và nói tiếng Việt như ở quê nhà!
Ở Hà Nội, có thể đổi tiền kip ở Ngân hàng Lào (BCE) hay ngân hàng liên doanh Lào - Việt hoặc lên phố Hà Trung. Một cách đơn giản hơn, bạn có thể mang theo USD hay VND và đổi tiền tại các cửa khẩu xuất nhập cảnh, chênh lệch tỷ giá không đáng kể.
Khách sạn, nhà nghỉ: 
Dịch vụ du lịch ở Lào khá phát triển, nên các nhà nghỉ bình dân giá từ 8 - 12USD rất sẵn. Dân Lào sẵn lòng chỉ đường cho các bạn tìm đến những khu phố du lịch, thường là nơi có phong cảnh đẹp và các dịch vụ ăn uống phát triển kèm theo.
Đồ ăn ở Lào cũng rất phong phú, rất dễ thưởng thức và khá gần gũi với ẩm thực của người Việt. Đừng quên thưởng thức những món nướng hấp dẫn, uống bia Lào tươi mát và ăn các loại hoa quả tươi ngon như xoài, quýt, chôm chôm, măng cụt…
 Phương tiện:
Phương tiện di chuyển phổ biến ở Lào là xe tuk tuk (giống xe lôi/xe lam của Việt Nam ) và xe pickup (một dạng xe tải nhỏ). Bạn phải chuẩn bị mũ nón, khẩu trang, kính râm, áo chống nắng (cho mùa hè) và cả găng tay để tự bảo vệ mình. Bạn nên đi giày mềm vì sẽ phải đi bộ khá nhiều giữa các điểm tham quan gần nhau, không nên đi xăngđan hay dép vì sẽ bị bắt nắng vào mùa hè và lạnh giá trong mùa đông.
Điểm đến:
LuangPrabang: Trong các điểm đến thì LuangPrabang là một nơi xứng đáng để dừng chân và tiêu tốn nhiều thời gian cũng như tiền bạc nhất. Tại đây, bạn có thể tới thăm một hệ thống chùa chiền nguy nga tráng lệ của cố đô như chùa Wat Xieng Thong, Wat Visunarath, Wat Mai, Wat Aham, Wat Sene… và cả Chùa Phật tích của người Việt bên bờ Mekong…
Các ngôi chùa đều nằm khá gần nhau, mở cửa từ 8-17g . Nếu vào bên trong chùa để tham quan và cầu phúc du khách sẽ phải trả lệ phí. Ngoài ra, bạn đừng quên lên đỉnh Wat Tham Phousi vào buổi chiều để ngắm hoàng hôn trên sông Mêkông và toàn cảnh LuangPrabang khi chiều hôm.
Các điểm đến khác được khách du lịch ưa thích như Bảo tàng cung điện hoàng gia, thác Tat Khuangsi, động Pak Ou, bản Phanom, bản Xiêng men nằm bên kia sông. Chợ đêm ở Lào họp từ 17g - 22g thì tan. Người Lào dọn chợ khá sớm, chợ đêm bán nhiều đồ lưu niệm và nhiều món ăn truyền thống của Lào, cực kỳ sôi động và thú vị.
Xiêng Khoảng : là nơi có di sản văn hóa Cánh đồng Chum nổi tiếng thế giới. Nếu không có nhiều thời gian bạn có thể ghé qua Bản Ang 2 tiếng để tham quan, còn Lắt Sén và Bản Sua có thể để dành cho một dịp khác. Từ Xiêng Khoảng hàng ngày có một chuyến xe bus đi LuangPrabang vào 8g30 sáng.
Vientiane: Đến Vientiane bạn có thể thuê xe đạp với giá 1USD/1g hoặc dùng xe tuk tuk để tham quan các điểm du lịch như: Pha That Luang, Wat Simuang (chùa Mẹ - nơi các nhà sư thường làm lễ buộc chỉ cổ tay cầu phúc cho dân), chùa Sisaket (bảo tàng của hàng ngàn bức tượng Phật lớn nhỏ và bằng nhiều chất liệu), vườn Phật, tượng đài chiến thắng Patuxay, Black Stupa và ghé chợ Sáng (morning market) để mua sắm.
- Từ Hà Nội có thể mua vé xe sang Lào đi Vientiane tại số 3A Nguyễn Gia Thiều, xuất cảnh ở cửa khẩu Cầu Treo. Bạn nên đi vào Vinh và mua vé xe bus đi Xiêng Khoảng qua cửa khẩu Nậm Cắn vào các ngày thứ ba, thứ năm, thứ sáu, Chủ nhật với giá khoảng 200.000đồng, lập lịch trình theo cung Cánh đồng Chum - LuangPrabang - Vang Viêng - Vientiane để có thể mang thật nhiều quà, đồ thủ công truyền thống, mỹ nghệ hay thổ cẩm với giá rất rẻ từ thủ đô Vientiane về Việt Nam.
Một số du khách còn kết hợp đi du lịch Thái Lan và Campuchia hay Mianma từ Lào. Bạn nên mua vé ôtô sớm để có chỗ ngồi tốt cho cả chặng đường dài, nhất là khi bạn có thể bị say xe.

Đi từ HN đến Vientiane hết 190.000VND (đi từ HN19h – đến Viên 16h hôm sau)
2. Lệ phí cửa khấu: 10.000VND + 5.000K (T2-T6)/15.000K (T7-CN)
K – là đơn vị tiền Lào; 1K ~ 1.5 VND
3. Ở khoảng 100.000 Kíp (~10USD). Cá nhân tớ ở KS Long Dao – ông chủ nói đc tiếng Việt. Tel: 865-21-990-386
4. Ăn rẻ hơn VN.
Tớ với 7 người Việt khác ăn ở Say Nha Restaurant (Mrs.Thanh Mobil: 856-20-5663-943) của ng VN hết 450.000K (~90.ooVND/pax) mà đồ ăn+rượu ngon!
(Lưu ý là người viết theo thông tin cũ, giá cả đã thay đổi.)

Vientian (download bản đồ):

-Ở: KS Long Dao – ông chủ nói đc tiếng Việt. Tel: 865-21-990-386; RiverSide Hotel Ban Mixay – P.O.box 2846 – Vien Tiane, Lao PDR Tel: (856-21) 244390;
SAYSOULY GUEST HOUSE 23 Th. Manthatulat, Vientian tel: 218 384 (mã vùng Viêng là 023 thì phải?? ) Phòng giá 8-12$, phòng 12$ thoáng mát, điều hòa, sàn gỗ sạch sẽ, phòng tắm riêng, phòng 8$ hơi bí, shared bathroom, nhưng các phòng tắm ngoài này khá lịch sự tươm tất, có vòi sen rất to. 2-4 người ngủ 1 phòng
-Ăn: Say Nha Restaurant (Mrs.Thanh Mobil: 856-20-5663-943) của ng VN hết 450.000K (~90.ooVND/pax) mà đồ ăn+rượu ngon; các hàng ăn ở cạnh sông Mekong giá niêm yết rõ ràng.
-Địa điểm tham quan: Patuxay-Khải hoàn môn của Lào; Morning Market (chợ sáng), Budget Garden (vườn phật); bờ Mê Kong, Cửa khẩu sang Thái Lan
-Đi lại: Từ bến xe ngoại ô về trung tâm 8000kip nếu đi ghép; Bến xe phía Nam: Bus từ Vien đi VangVieng 40.000kip; Bus đi LuangPraBang 100.000kip (có các chuyến xuất phát từ 16-18h);
2. VangVieng (download bản đồ)
Ở: giá khách sạn khá rẻ chỉ khoảng dưới 10$ cho một phòng đôi
ăn:
Địa điểm tham quan:
có thể mua một tour bao gồm các trò chơi ở bên sông rất thư giãn và thoải mái
Đi lại:
Xe đi LuangPrabang xuất phát buổi tối
3. LuangPraBang (download bản đồ):
-Ở: Kounxavan Guest House: khuôn viên đẹp, giá từ 7$-10$; SuanPhao GH 071 252 229, Vongpanya (7-10$) 071 212 039 hơi xa trung tâm; Marry GH có phòng nhìn ra sông Nậm Khan rất đẹp (10$ )071252 325
-ăn: Butfet Rau; các mòn nướng ở chợ đêm giá rất rẻ,
-Địa điểm tham quan:
+ Buổi sáng nhớ dậy sớm 5h sáng để xem cảnh khất thực rất hoành tráng
+Các chùa: 3 chùa tiêu biêu: Xieng Thong, Chom Si, Visoun
+Bảo tảng quốc gia (trước đây là nơi ở của hoàng gia): vé 30.000 kip
+Thác KuangSi: mua tour hoặc tuktuk (4 USD), vé vào cửa 20.000 kip
+Động Paku: đi bằng thuyền
+Khu bảo tồn voi:
-Đi lại: đi liên tỉnh cần ra mua vé tại Bus Station, Laos Airways hoặc các văn phòng tour
+ Tới XiengKhoang: 80.000Kip chỉ có 1 chuyến xuất phát lúc 8h sáng
+ Máy bay về Hà Nội-Việt Nam: 130USD mua vé tại Laos AirLines

XiengKhoang-Phonxavan:
Ăn
: Sabaidee GH
Địa điểm tham quan: cánh đồng chum, thác nước
Đi lại: Tuk tuk
- Vé về Vinh Việt Nam 100.000 kip (chỉ có vào 3,5,7, CN xuất phát từ 6 h sáng, tối hôm trước đã phải mua vé)

Đi bằng xe nhà tự lái
- Xin giấy phép liên vận Việt-lào tại Sở GTVT (hình như số 2 Phùng Hưng Hà Đông), thủ tục gồm có:
- Bản công chứng hoặc phô tô giấy đăng ký xe
- Bản công chứng hoặc phô tô giấy phép lái xe
- Bản công chứng hoặc phô tô giấy bảo hiểm bắt buộc còn hạn
- Bản công chứng hoặc phô tô giấy đăng kiểm (phô tô cả quyển)
(lưu ý : nếu bản phô tô thì phải mang bản chính để đối chiếu)
- Lệ phí : 50.000 đ
- Kết quả: 1 quyển giấy phép màu đỏ có quốc huy VN , 1 tờ giấy dán kính có chữ: Transit Vietnam-Lao
- Thời gian : sau 3 ngày . Lưu ý : phải lấy 2 tờ khai để xác nhận tại UBND phường nơi cư trú , và tờ đơn- Có thể lấy tại phòng 1 cửa của Sở hoặc search trên mạng cái mẫu

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002(tiếp theo)

Phần 8
Chương III
KHẨN TRƯƠNG HOÀN CHỈNH CÁC PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN, HIỆP ĐỒNG CHẶT CHẼ, LÀ HỎA LỰC MẶT ĐẤT CHỦ YÊU CỦA QUÂN KHU GÓP PHÂN QUAN TRỌNG ĐÁNH ĐỊCH LẤN CHIẾM VÀ GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN TRỊ THIÊN
(1973-1975)


I. CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG, HOÀN CHỈNH CÁC PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN, THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TRỊ - THIÊN

Ngày 9 tháng 1 năm 1973, Quân ủy Trung ương họp đánh giá tình hình, dự kiến khả năng đánh phá của Mỹ - ngụy trước và sau khi Hiệp định Pa-ri về Việt Nam có hiệu lực, Quân uỷ Trung ương nêu rõ: "Địch tìm mọi cánh phá hoại hiệp định, phá hoại hoà bình... cuộc đấu tranh về chính trị, kinh tế sẽ diễn ra gay go và quyết liệt giữa hai vùng, hai lực lượng. Có thể xen lẫn xung đột vũ trang ở từng địa phương... địch sẽ mở các cuộc hành quân an ninh, cảnh sát, tiếp tục đẩy mạnh bình định, tiêu diệt lực lượng cách mạng ở vùng xen kẽ hoặc đánh chiếm một số địa phương nhất định...".
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, hiệp định Pa-ri về Việt Nam được ký kết. Những đơn vị cuối cùng của đội quân viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi nước ta. So sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường thay đổi căn bản có lợi cho ta. Tuy vậy đế quốc Mỹ chưa từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Chúng để lại nhiều sĩ quan mặc áo dân sự, nhiều vũ khí, trang bị hiện đại và các căn cứ quân sự lớn. Dựa vào Mỹ, chính quyền ngụy Sài Gòn ra sức phá hoại hiệp định Pa-ri ngay từ đầu một cách có hệ thống, thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ”, mở liên tiếp các cuộc hành quân "bình định", lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
Cuối tháng 2, bộ tổng tham mưu và các quân khu, quân đoàn ngụy soạn thảo và hoàn chỉnh kế hoạch quân sự "Lý Thường Kiệt - 1973". Đây là kế hoạch quân sự toàn diện nhằm mục đích chiếm đất, giành dân, bình định, chiêu hồi, xây dựng lực lượng tình báo, xây dựng quân ngụy, phong tỏa kinh tế của ta và bảo vệ kinh tế của chúng. Bộ Quốc phòng ngụy dự tính trong năm 1973 vẫn duy trì 1,1 triệu quân chủ lực, quân địa phương và hiện đại hoá lực lượng này.

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002 (tiếp)

phần 7

III. PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG CHI VIỆN ĐẮC LỰC CHIẾN TRƯỜNG VÀ CHIẾN ĐẤU DŨNG CẢM (1971-1973)

Thời gian về Quỳnh Lưu (Nghệ An) củng cố, ổn định đơn vị chưa được bao lâu, do yêu cầu của chiến trường Lào đòi hỏi; Bộ tư lệnh Pháo binh bàn giao cho Bộ tư lệnh Mặt trận 959 ở Lào tiếp nhận tiểu đoàn 2 pháo binh Trung đoàn 16. Tiểu đoàn 2 có 3 đại đội, trong đó 2 đại đội lựu pháo 122mm có 8 khẩu, 1 đại đội canon 85 có 6 khẩu. Đồng chí Nguyễn Chiến - Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Liệu thay đồng chí Lan (do bị thương) làm chính trị viên. Đồng thời được sự đồng ý của cấp trên, trung đoàn đưa đại đội 969 về thuộc Trung đoàn 77, rút lực lượng của tiểu đoàn 4 sang xây dựng lại đại đội 3, củng cố tiểu đoàn 3, chuẩn bị tổ chức lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bước sang năm 1971, tình hình cách mạng có bước phát triển mới, đế quốc Mỹ và tay sai càng thua càng điên cuồng chống phá, liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét... Để bảo đảm cho các đơn vị pháo binh tuyến trước liên tục tấn công địch phối hợp với các lực lượng trên các chiến trường, Bộ tư lệnh giao cho trung đoàn nhiệm vụ xây dựng lực lượng sẵn sàng chi viện chiến trường. Đầu năm 1971, đế quốc Mỹ và tay sai mở cuộc hành quân ra đường 9 - Nam Lào với quy mô lớn. Theo chủ trương của Bộ, ta mở chiến dịch đường 9 - Nam Lào, lực lượng tham gia chiến dịch có Sư đoàn 308, 320, Sư đoàn 2 (CK5), Sư đoàn 324 (Bộ tư lệnh Pháo binh), 4 tiểu đoàn xe tăng, 4 đại đội pháo cơ giới, mang vác (16, 84, 45, 675), 3 đại đội cao xạ (208, 214, 284), lực lượng Quân khu Trị Thiên có 3 đại đội (6, 9, 8 ).

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

Iraq chọn mua radar pháo binh Fire Finder

Dù Mỹ giới thiệu hệ thống radar định vị pháo binh EQ-36 mới và hiệu quả hơn, nhưng Iraq từ chối và đặt hàng mua 6 hệ thống radar đời cũ là Fire Finder.


Năm 2010, trước khi gửi lời chào hàng tới Iraq, Mỹ từng đưa hệ thống radar định vị pháo và đạn cối thế hệ mới EQ-36 tới chiến trường Afghanistan để thực nghiệm khả năng. Hệ thống mới dễ sử dụng và sửa chữa cũng như đáng tin cậy hơn hệ thống tiền nhiệm là Fire Finder AN TPQ-36/37.
EQ-36 có khả năng quét 360 độ, thay vì góc 90 độ như Fire Finder với tốc độ nhanh hơn đáng kể. Lục quân Mỹ có kế hoạch mua 180 hệ thống EQ-36 với giá 9 triệu USD/chiếc. Tuy nhiên, do ngân quỹ hạn hẹp, Mỹ chỉ có thể đặt hàng 33 chiếc.
Hệ thống Fire Finder tuy cũ và có nhiều điểm hạn chế nhưng có giá thành rẻ hơn mà vẫn đảm bảo tối thiểu nhiệm vụ. Đó là lý do Iraq chọn mua thay vì hệ thống mới tiên tiến hơn.
Trước đây, khi trình diễn ở Iraq, hệ thống Fire Finder đã phạm phải những lỗi nghiêm trọng và không thể phát hiện đạn pháo cối bay đến. Nguyên nhân là do Fire Finder được phát triển dựa trên kinh nghiệm chiến trường Đông Nam Á, không phù hợp với thực tiễn mới. Sau đó, các kỹ sư Mỹ đã khắc phục lỗi này.
Biến thể mới nâng cấp của Fire Finder có có khả năng quét và phát hiện pháo trong tầm 18 km, tên lửa trong tầm 24 km với khả năng định vị 10 điểm vũ khí cùng lúc
Trong cuộc tấn công vào Iraq, hiệu quả của Fire Finder được chứng minh nên chúng được sử dụng rộng rãi. Sự gọn nhẹ trong thiết kế giúp các hệ thống có thể triển khai nhanh chóng trên các chiến trường nhờ vận chuyển đường không/đường bộ.
Hệ thống Fire Finder hoạt động dựa trên nguyên lý xác định địa điểm và thời gian của đạn bay đến, tính toán và gửi thông tin về các đơn vị quân đội, đặc biệt là pháo binh.


Biết được điểm xuất phát của pháo, quân đội sẽ tấn công dồn dập vào điểm đó. Quá trình phát hiện và tấn công chỉ khoảng 3-4 phút (có thể ít hơn với các đơn vị chuyên nghiệp và có kinh nghiệm).
(Nguồn Đất Việt)

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002 (tiếp theo)

Chiến sỹ Đại đội 5 tại Cánh đồng chum- Xiêng khoảng
Chiến sỹ c5: Phổ, Trung, Cảnh, Hà trên trận địa Bản Zon

(phần 6)

II. TỔ CHỨC HÀNH QUÂN AN TOÀN, HIỆP ĐỒNG CHIẾN ĐẤU GIỎI, HOÀN THÀNH XUẤT SẮC NHIỆM VỤ QUỐC TẾ Ở LÀO (9.1969 - 12.1970)

Ngày 9 tháng 9 năm 1969 thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh pháo binh, Trung đoàn 16 thành lập đại đội 969 pháo binh tinh nhuệ đầu tiên, đồng chí Phú được bầu làm đại đội trưởng, đồng chí Tám làm chính trị viên. Đại đội 969 vừa thành lập, trung đoàn gửi đơn vị chuyển sang trường sĩ quan ở Sơn Tây để huấn luyện 3 tháng (đại đội 969 được thành lập tại Thạch Thành, Thanh Hoá). Đơn vị được trang bị súng tiểu liên AK báng gấp, B41, cối 82mm (không có bàn đế), đạn H12 bắn ứng dụng ở cự ly 100m.
Cũng trong thời gian này Bộ tư lệnh Pháo binh quyết định sáp nhập 2 Trung đoàn 16A và 16 thành Trung đoàn pháo binh 16. Ban chỉ huy trung đoàn lúc này gồm có: đồng chí Đỗ Ký làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Dù làm chính uỷ, đồng chí Phan Chuẩn - Trung đoàn phó, đồng chí Trần Hồng Trang - Phó chính ủy phụ trách cơ quan, đồng chí Nguyễn Khắc Luyện - Tham mưu trưởng, đồng chí Hoàng Chín - Chủ nhiệm chính trị, đồng chí Ngô Duy Thản - Chủ nhiệm hậu cần.
Trung đoàn có 3 tiểu đoàn, 1 đại đội chỉ huy.
Tiểu đoàn 2: do đồng chí Mai Văn Chiến làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Trần Gia Lâm làm chính trị viên.
Tiểu đoàn 4: do đồng chí Hoàng Công Sự làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Cường - Chính trị viên (về sau đồng chí Nguyễn Văn Bảy thay).
Tiểu đoàn 3 (ĐKZ): đồng chí Đào Duy Hạc làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Trịnh Xuân Đăng làm chính trị viên.
Thực hiện quyết định của Bộ tư lệnh Pháo binh, lãnh đạo, chỉ huy trung đoàn đã triển khai tổ chức chuyển dời vị trí đóng quân từ Vĩnh Phú về huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá.
Vừa ổn định nơi ăn ở, vừa tổ chức khẩn trương huấn luyện, khó khăn vất vả không làm cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn nao núng; tinh thần tự lực tự cường khắc phục khó khăn được phát huy cao độ kết hợp với sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo, chính quyền, nhân dân khu vực đóng quân nên trong thời gian ngắn đơn vị đã tạm ơn định, tập trung huấn luyện nâng cao trình độ chiến thuật. Kết thúc chương trình huấn luyện tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3 thực hành mang vác pháo ra trường bắn ở Sơn Tây để bắn kẹp nòng và bắn ứng dụng. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật cả 3 tiểu đoàn đạt khá giỏi các môn, đơn vị an toàn.
Ngày 8 tháng 10 năm 1969, Bộ tư lệnh pháo binh quyết định tổ chức cho Trung đoàn 16 hành quân chiến đấu tham gia chiến dịch phản công 139 ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Bộ chỉ huy chiến dịch có đồng chí Vũ Lập - Tư lệnh, Chính ủy - đồng chí Huỳnh Đắc Hương.
Ngày 30 tháng 12 năm 1969, một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng của trung đoàn, đó là Đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ 2. Đại hội đã đánh giá khách quan những ưu điểm và thiếu sót của đảng bộ, đồng thời đề ra nội dung xây dựng đảng bộ mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Nghị quyết Đại hội nêu rõ: xây dựng Trung đoàn 16 vững mạnh, quyết tâm cao, chủ động cơ động trên mọi chiến trường, càng đánh càng trưởng thành toàn diện.
Đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ 2 bầu ra ban chấp hành gồm 9 đồng chí; trong đó ban thường vụ có 3 đồng chí:
- Đồng chí Nguyễn Dù làm Bí thư.
- Đồng chí Đỗ Ký - Phó bí thư.
- Đồng chí Hoàng Chín - Uỷ viên thường vụ.
Và các đồng chí đảng ủy viên: Nguyễn Hồng, Phan Chuẩn, Nguyễn Khắc Luyện, Ngô Dư Thản, Trần Gia Lâm, Trịnh Xuân Đăng.
Trong thời gian trung đoàn vừa ổn định tổ chức, vừa ổn định nơi ăn ở, thì ngày 23 tháng 12 phải tổ chức bộ phận đi trước chuẩn bị chiến trường gồm các đồng chí: Phan Chuẩn - Trung đoàn phó, đồng chí Đào Dũng Trí, một đồng chí trợ lý hậu cần, một phân đội chỉ huy thuộc tiểu đoàn 2 từ Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá hành quân vào bản Ban (khu vực ngã ba đường 6 và đường 7 thuộc Xiêng Khoảng), tham gia chiến dịch phản công 139 ở Lào, đoàn mang mật danh là 112.
Sau một thời gian, vào tháng 2 năm 1970 trung đoàn tiếp tục hành quân làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Cơ quan trung đoàn và 2 tiểu đoàn: tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3 đưa lựu pháo 122, pháo canon nòng dài 85mm vào chiến đấu. Từ lãnh đạo, chỉ huy đã quán triệt nhiệm vụ và xác định rõ trách nhiệm. thấm nhuần tư tưởng và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giúp bạn là tự giúp mình" vì tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc Việt - Lào:
"Việt Lào hai nước chúng ta,
Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long".
Cán bộ, chiến sĩ cơ quan trung đoàn, tiểu đoàn 3 pháo 85mm được trang bị 12 khẩu và đại đội pháo 969 đơn vị tinh nhuệ1 (Đại đội pháo 969 đơn vị tinh nhuệ nguyên là đại đội 3 của tiểu đoàn 95 cũ được tổ chức lại để huấn luyện ở Sơn Tây vào tháng 9 năm 1969. Sự có mặt của đại đội chiến đấu để Bộ tư lệnh Binh chủng rút kinh nghiệm về cách đánh và tổ chức trang bị) bừng bừng khí thế ra trận trong tình cảm chia tay lưu luyến của lãnh đạo, chính quyền và nhân dân huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá.
Lãnh đạo, chỉ huy trung đoàn trước khi nhận lệnh hành quân chiến đấu trên đất Lào đã thấy rõ những khó khăn thách thức đó là quá trình huấn luyện, các khoa mục tổ chức biên chế, trang bị đều lấy đối tượng Mỹ - ngụy ở chiến trường miền Nam, nhưng đơn vị lại tác chiến ở chiến trường Lào, đồng thời tình hình biên giới Việt - Lào bọn phỉ hoạt động phá hoại mạnh, địa hình rừng núi hiểm trở, đơn vị mang vác xe pháo nặng cồng kềnh, nhận nhiệm vụ gấp, hành quân liên tục, cán bộ, chiến sĩ chưa quen địa hình, thời tiết. Một số cán bộ, chiến sĩ chưa tin vào cách đánh mới của đơn vị.

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002 (tiếp theo)

(phần 5)
Trong lễ xuất phát hành quân chiến đấu, trung đoàn tổ chức chu đáo gồm đại diện chính quyền địa phương cùng đông đảo nhân dân trong khu vực đóng quân và toàn thể chiến sĩ trong trung đoàn. Nói sao hết được tình cảm sâu nặng gắn bó giữa nhân dân và đơn vị, giữa những người ra đi chiến đấu với những người ở lại, cuộc chia tay đầy cảm động và xao xuyến bịn rịn, lưu luyến.
Trung đoàn hành quân ra trận lần này, chỉ huy có các đồng chí: Trung đoàn trưởng: đồng chí Đỗ Ký; Chính uỷ trung đoàn: đồng chí Lưu Khanh; Trung đoàn phó: đồng chí Nguyễn Hồng Trung: phó chính uỷ kiệm chủ nhiệm chính trị: đồng chí Trần Lực: Tham mưu trtưởng: đồng chí Trần Quốc Khai; Chủ nhiệm hậu cần: đồng chí Ngô Duy Than; phó chủ nhiệm chính trị: đồng chí Trịnh Xuân Nhị.
Đội hình hành quân được sắp xếp như sau:
Tiểu đoàn 3 và bộ phận cơ quan trung đoàn do đồng chí Nguyễn Hồng Trung và đồng chí Trần Lực chỉ huy. Khối hành quân này có 40 xe vận tải, trang bị 12 khẩu pháo 85mm, vượt qua sông Hồng về nam bến Mía với mật danh đơn vị là 2022.
Tiểu đoàn 2 và lực lượng còn lại của 3 cơ quan cùng đại đội chỉ huy trinh sát vượt sông Hồng về phía nam ở bến Chàm. Trang bị 12 khẩu pháo 85mm, 40 xe kéo pháo và xe vận tải. Dưới sự chỉ huy của đồng chí trung đoàn trưởng, chính ủy trung đoàn và tiểu đoàn trưởng, chính trì viên, mật danh của đoàn là 0202.
Tiểu đoàn 1 xuất phát từ Ninh Bình, độc lập hành quân vào vị trí tập kết của đội hình trung đoàn. Đơn vị do đồng chí Tống Văn Ao làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Ấp - chính trị viên, tiểu đoàn mang mật danh 2024. Đơn vị được trang bị 12 pháo 85mm và 17 xe vận tải.

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002 (tiếp theo)

(phần 4)
Chương II
TỔ CHỨC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG, CHIẾN ĐẤU OANH LIỆT, CHIẾN THẮNG VẺ VANG (1966 - 1972)
I. ỔN ĐỊNH TỔ CHỨC, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG, TRẬN ĐẦU ĐÁNH THẮNG (3-1966 - 1969)


Ngay sau khi thành lập, Đảng ủy, chỉ huy trung đoàn đã xác định rõ nhiệm vụ mà Bộ tư lệnh Pháo binh giao cho là một trung đoàn pháo binh dự bị chiến lược. Để hoàn thành nhiệm vụ, Đảng uỷ, chỉ huy trung đoàn xác định trước mắt phải tập trung cao độ, tổ chức huấn luyện giỏi, rèn luyện thể lực, chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu. Công tác chính trị tư tưởng động viên trên thao trường, bãi tập đã được các cấp coi trọng, thông qua đài báo, áp phích, sinh hoạt tin tức chiến thắng ở chiến trường miền Nam đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn hừng hực khí thế thi đua cùng tiền tuyến.

Hò kéo pháo

Tiếng hát pháo binh

"Tiếg hát pháo binh" Qúy Dương trình bày

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2011

Lịch sử Lữ đoàn Pháo binh 16 - Đoàn Thuận An - 1966-2002

(tiếp theo)
phần 3
Trong đội hình Trung đoàn 16, cùng với tiểu đoàn pháo binh 1 đã có bề dày truyền thống trong chiến đấu, xây dựng và huấn luyện, tiểu đoàn pháo binh 2 nguyên là tiểu đoàn pháo binh 3 Trung đoàn pháo binh 451 (Biên niên sự kiện lịch sử pháo hình, Sđd,... tr.50) do đồng chí Nguyễn Quốc Tầm làm tiêu đoàn trưởng, đồng chí Đinh Xuân Nhị làm chính trị viên, là một trong ba tiểu đoàn pháo xe kéo của quân đội ta.
Trung đoàn pháo binh 45 nguyên là Trung đoàn bộ binh 34 của Liên khu 3. Từ một trung đoàn bộ binh có bề dày thành tích trong chiến đấu, được thành lập sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Tham gia chiến đấu từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại thành phố Nam Định, trung đoàn đã lập được nhiều thành tích trong chiến đấu và đã được Bác Hồ tặng danh hiệu "Trung đoàn Quyết thắng"2 (Tổng kết công tác xây dựng... Sđd, tr.20). Tháng 7 năm 1951 trung đoàn được lệnh hành quân sang Trung Quốc nhận trang bị vũ khí và huấn luyện. Gần 3 năm sau ngày 17 tháng 3 năm 1953 trong đội hình lực lượng pháo binh chủ lực, với phiên hiệu Trung đoàn pháo binh 45 (lựu pháo 105 ly), đã tham gia nhiều trận chiến đấu chi viện hỏa lực cho bộ binh.

Biên niên sự kiện lịch sử ngành kỹ thuật pháo binh liên quan đến E16- Bộ tư lệnh Pháo binh

Ngày 23 tháng 3 - 1965
Bảo đảm trang bị thành lập trung đoàn 16

Trung đoàn 16 biên chế 3 tiểu đoàn trang bị 36 pháo 85mm.
Lực lượng kỹ thuật trung đoàn có ban xe, ban quân khí và 2 trạm sửa chữa xe, pháo. Địa điểm đóng quân, Đại Đình Tam Dương Vĩnh Yên.
Ngày 10 tháng 2
Bảo đảm kỹ thuật cho tiều đoàn 3, trung đoàn 16

Tiểu đoàn 3 trung đoàn 16 trang bị 12 pháo 85mm tăng cường cho Quân khu 4. Ban Quân khí, ban Xe Binh chủng cùng với trung đoàn 16 tiến hành kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa, bổ sung vật tư phụ tùng, xe pháo cho tiểu đoàn. Trên đường hành quân tiểu đoàn tự bảo đảm.