Tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh Quân khu Trì - Thiên giao nhiệm vụ cụ thể cho Trung đoàn pháo binh 16:
1. Chi viện cho các trung đoàn bộ binh 4, 6, 271 đánh chiếm các mục tiêu quy định và bảo vệ các khu vực phòng thủ trọng điểm.
2. Kiềm chế và tiêu diệt các trận địa pháo binh địch có thể nguy hại đến hành động của bộ binh.
3. Đánh phá hậu cứ (kho xăng, đạn) và các sở chỉ huy trung, lữ, sư đoàn địch.
4. Tiêu diệt xe tăng, xe bọc thép phản kích lấn chiếm của địch vào tuyến phòng thủ hoặc sâu trong hậu phương của ta.
5. Chuẩn bị sẵn sàng 2 đại đội pháo cỡ lớn (112 và 130 ly) đánh các mục tiêu trọng yếu nằm sâu trong lòng địch khi có thời cơ.
6. Tổ chức huấn luyện cho 2 đai đội vũ trang công tác và 1 lực lượng khoẻ tham gia công tác đột xuất của quân khu, 1 lực lượng dùng pháo dịch đánh địch.
7. Tham gia cùng các đơn vị bạn bảo vệ vùng Pa Puy, Củng Cáp đánh địch đổ bộ phía sau, truy lùng thám báo, biệt kích và bắt giặc lái.
8. Bồi dưỡng huấn luyện cho một số phân đội chỉ huy của Trung đoàn pháo binh 223 dùng pháo cao xạ đánh mục tiêu trên mặt đất.
9. Bảo quản giữ gìn, sử dụng, quản lý tốt trang bị vũ khí, khí tài kỹ thuật, phương tiện vật chất.
10. Tích cực tranh thủ xây dựng huấn luyện đơn vị vững mạnh toàn diện tăng gia sản xuất tự túc tiết kiệm và tham gia xây dựng vùng giải phóng.
Để thực hiện nhiệm vụ mà Bộ tư lệnh Quân khu giao cho, Đảng uỷ, chỉ huy trung đoàn phải quán triệt nhiệm vụ, động viên cán bộ, chiến sĩ nỗ lực cao nhất, chấp hành nghiêm các chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ Quân khu giao năm 1975.
Trung đoàn đặt mức cho các đơn vị phấn đấu, cụ thể: tiểu đoàn 1 diệt từ 2-3 trận địa pháo địch; tiểu đoàn 403 diệt 3 trận địa địch, với lực lượng đạn bình quân từ 25 đến 30 viên (loại 100mm trở lên), phá hỏng 1 khẩu pháo địch, đánh kho xăng, kho đạn tiểu đoàn 1, đánh 2 đến 3 kho, tiểu đoàn 403, đánh 1 đến 2 kho).
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cấp trên giao, Đảng uỷ, chỉ huy trung đoàn xây dựng phương án tác chiến, đề ra một số công tác lớn.
+ Về công tác chính trị và tổ chức:
Các đơn vị tiếp tục quán triệt sâu sắc nhiệm vụ trung tâm số một là "đánh bình định, phá ngăn chặn chống lấn chiếm" tiếp tục giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ tính chất nhiệm vụ đặc biệt của trung đoàn pháo binh cơ giới trong quân khu địa phương, giải quyết tốt mối quan hệ tác chiến và xây dựng. Nghị quyết Đảng uỷ trung đoàn tháng 2 năm 1975 chỉ rõ: "Củng cố xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu dũng cảm ngoan cường hoàn thành xuất sắc rọi nhiệm vụ, xây dựng tình đoàn kết hiệp đồng, ý thức tổ chức kỷ luật, nhất là tinh thần chấp hành mệnh lệnh, tự lực, tự cường, yêu quý giừ gìn, quản lý, sử dụng tốt mọi trang bị kỹ thuật. Trước mắt chỉ đạo hoàn thành việc tập trung lãnh đạo phát huy cao độ tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, tranh thủ mọi thời gian hoàn thành tốt nhiệm vụ chuẩn bị chiến đấu nhất là công tác cơ động pháo, đạn, bảo đảm thông tin liên lạc".
Đảng uỷ trung đoàn tiếp tục chỉ đạo hoàn thành kiểm tra kế hoạch rèn luyện đảng viên năm 1975, đẩy mạnh công tác phát triển Đảng. Tổ chức bồi dưỡng cho cấp uỷ viên mới, cho đảng viên ưu tú, đặc biệt kiểm tra tổ chức thực hiện nghị quyết triển khai nhiệm vụ chiến đấu Toàn trung đoàn tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ, tổ chức quần chúng trong cơ quan, đơn vị nhằm tiếp tục quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ, phát huy ý chí quyết tâm chiến đấu, tình cảm cách mạng, dám xả thân phấn đấu hy sinh vì sự toàn thắng của dân tộc, tạo ra khí thế thi đua giết giặc lập công sôi nổi trong đơn vị, cơ quan.
Đối với công tác quân sự, Đảng uỷ và chi huy trung đoàn căn cứ vào nhiệm vụ, bố trì đội hình trong phạm vi chiến đấu 100km (từ nam sông Mỹ Chánh đến Phước Tượng, chiều sâu từ tuyến giáp ranh đến bờ biển dài khoảng 25 km với những mục tiêu có ý nghĩa chiến lược như Đức Tích, Hiệp Khánh, Tử Hạ, Bình Điền, ấp 5, Phú Bài, đặc biệt là 3 mục tiêu: Mang Cá, cửa Tư Hiền, cửa Thuận An. Về cơ sở vật chất kỹ thuật, Trung đoàn có 39 khẩu pháo các loại với 4.020 viên đạn, 30 xe xích (chỉ dùng được 7 xe), 25 xe kéo pháo và 5 xe vận tải, 42 máy vô tuyến điện.
Trung đoàn xác định tiểu đoàn 1 là hướng chủ yếu, lập 12 đài quan sát trong đó có 5 đài luồn sâu.
Kế hoạch sử dụng lực lượng: Mỗi tiểu đoàn sử dụng 2 đại đội dùng pháo kiêm nhiệm (85, 100, 152mm) để đánh thường xuyên, một đại đội dùng trong pháo biên chế (120, 130mm) đánh từng đợt khi nhiệm vụ yêu cầu; một đại đội sẵn sàng dùng pháo địch (105, 155mm) để đánh địch. Đồng thời triển khai lực lượng cơ động pháo và vận chuyển đạn về vị trí tập kết đúng quy định an toàn. Đại đội 2 tiểu đoàn 1 kéo 2 khẩu 100mm và 2 khẩu 155mm ở Quảng Trị ngay trong đêm 30 tết mới về vị trí quy định.
Công tác sửa chữa khôi phục xe, pháo để bảo đảm cơ động và hiệu chỉnh pháo nhất là các loại pháo kiêm nhiệm mới nhận về, cán bộ kỹ thuật được khẩn trương xuống cơ sở hướng dẫn và trực tiếp sửa chữa. Công việc đang được tổ chức thực hiện, do yêu cầu nhiệm vụ có sự thay đổi, ngày 3 tháng 2 năm 1975, quân khu xác định hướng tiểu đoàn 403 là hướng chủ yếu, tiểu đoàn bàn giao 2 khẩu 85mm trên đường 14B cho Trung đoàn 78. Sư đoàn 324 kéo 12 khẩu 85mm, 2 khẩu 100mm về đường 73A. Trung đoàn điều một bộ phận cán bộ đại đội 9 đi tiếp nhận 2 khẩu 57mm ở cụm 2 bố trí ở chân cao điểm 460 hoặc 386 để bắn ngắm trực tiếp vào Chúc Mao. Khi triển khai thực hiện nhiệm vụ đường 73A chưa hoàn thành. Đại đội 5 pháo 152mm phối thuộc cho tiểu đoàn 403 đang trên đường hành quân vào, đại đội 7 pháo 100mm và 85mm còn ở hướng Nam Đông, pháo 75 chưa có lực lượng nhận, cán bộ chuẩn bị chiến trường và mọi phương tiện liên lạc thông tin chưa có.
Công việc đang triển khai thực hiện nghiêm túc, khẩn trương thì ngày 3 tháng 3 nhiệm vụ của tiểu đoàn 403 lại có sự thay đổi. Bố trí đội hình cụ thể như sau: 2 khẩu 152mm bố trí ở km 26 đường 73A, trực tiếp chi viện cho Trung đoàn bộ binh 6 đánh chiếm Chúc Mao; đại đội 7 tiếp tục bàn giao 2 khẩu 85mm ở hướng đường 14B cho Trung đoàn 78, để lại 1 đài quan sát; 1 trung đội pháo thủ dùng 2 khẩu 100mm tiếp tục chi viện cho Trung đoàn bộ binh 271 chiến đấu, sau đó phối thuộc cho Trung đoàn 78; trung đội 2 quay lại nhận 2 khẩu 85mm của trung đoàn 789 ở A Lưới vào bố trí ở đường 73A (1 khẩu ở km36 để tìm pháo địch ở Bình Điền), 1 khẩu ở km29 để đánh địch phản kích; đại đội 1 tiểu đoàn 1 Lữ đoàn 164 có 1 khẩu 100mm đặt ở km36 để kìm pháo địch ở Bình Điền, Minh Mạng.
Trước yêu cầu nhiệm vụ khẩn trương và phức tạp phương tiện thông tin vừa thiếu, vừa kém chất lượng, chỉ huy và cơ quan trung đoàn phân tích ở bộ phận trực tiếp xuống tiểu đoàn để nắm tình hình và chỉ đạo tác chiến, hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh.
Hướng nam do Trung đoàn trưởng, phó chính uỷ, tham mưu phó, chủ nhiệm hậu cần, chủ nhiệm chính trị và một số trợ lý chủ chốt của 3 cơ quan đảm nhiệm.
Hướng bắc do đồng chí Trung đoàn phó, chỉ huy, tham mưu trưởng và một số trợ lý của 3 cơ quan đảm nhiệm. Trong quá trình triển khai nhiệm vụ có nhiều công tác đột xuất nhiều khó khăn mới nảy sinh nhưng các cấp lãnh dạo? chi huy đã nghiên cứu công tác, có quyết tâm cao, phát huy trí tuệ, sức mạnh của quần chúng nên tiến hành mọi công tác chuẩn bị được khẩn trương, tương đối toàn diện chu đáo, giữ được bí mật bất ngờ, gây được sự phấn khởi tin tưởng vào lãnh đạo, chỉ huy và phương án kế hoạch quyết tâm đánh thắng ngay từ trận đầu đạt hiệu suất cao.
Chiến dịch xuân 1975 của Quân khu Trị - Thiên được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ ngày 5 tháng 3 đến ngày 17 tháng 3 năm 1975 là giai đoạn đầu phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch trên tuyến giáp ranh và phá lỏng bộ máy kìm kẹp của địch ở nông thôn đồng bằng. Giai đoạn 2 từ 18 tháng 3 đến 26 tháng 3 là giai đoạn tiến công giải phóng Quảng Trị, đồng thời là giai đoạn quyết định của chiến dịch, giai đoạn đánh địch co cụm lớn và rút chạy, ta tiến công giải phóng hoàn toàn thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 6 tháng 3 năm 1975, hoà chung khí thế ra trận của cả nước, Bộ tư lệnh quyết định sử dụng lực lượng Trung đoàn 16 tham gia chiến dịch lịch sử xuân 1975.
Lực lượng Trung đoàn pháo binh tham gia trên hướng bắc là tiểu đoàn 1 có 2 đại đội pháo 130mm, 2 khẩu pháo 152mm (được tăng cường trong chiến dịch).
Pháo của Trung đoàn trên hướng này được tổ chức, xây dựng thành 4 trận địa pháo 130mm, Đ74 và 85mm vẫn ở vị trí như cũ. Hai khẩu 100mm được bố trí ở khu vực Củng Cáp, 2 khẩu 152mm bố trí sau đồi Đức Mẹ và dãy đồi phụ cận.
Sở chỉ huy cánh bắc của Bộ tư lệnh Quân khu ở dãy núi đá gần Nam Hoà có 1 tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm của Trung đoàn 233 và phân đội súng máy 12,7mm của bộ đội bảo vệ sở chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 16 đặt cạnh sở chỉ huy Trung đoàn bộ binh 4.
Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ hướng bắc của Trung đoàn 16 là chi viện cho Trung đoàn bộ binh 4 tiến công tiêu diệt các mục tiêu ở Phổ Lại, Động Hồ, đập tan tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch xuống phía đông hỗ trợ cho lực lượng địa phương nổi dậy phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ quê hương, bao vây cô lập, phối hợp với lực lượng chủ yếu tiến lên giải phóng thành phố Huế, đồng thời kìm pháo địch, phá kho tàng trên trục đường 1 xuống sông Mỹ Chánh cho đến trung tâm thành phố Huế, xuống Củng Cáp, Tân Mỹ, Thuận An.
Trên Hướng nam chiến dịch bao gồm toàn bộ lực lượng hoả lực của tiểu đoàn 403, được phối thuộc thêm đại đội 5 thuộc tiểu đoàn 6 pháo độc lập của Quân khu (được trang bị pháo 152mm).
Lực lượng được bố trí như sau: Đại đội 8 và 9 ở hướng 72 điểm cao, tuyến đài quan sát ở điểm cao 875 sau phát triển lên phía Mỏ Cày.
Sở chỉ huy trung đoàn do đồng chí Lê Sửu và đồng chí Trịnh Xuân Đằng chỉ huy ở hướng này.
Nhiệm vụ của Trung đoàn pháo bình 16 ở hướng này là: Trực tiếp chi viện cho 2 Trung đoàn bộ binh 6 và 271 của Quân khu đánh chiếm các mục tiêu trên đường 12 Động Trạch, Phà Tuần, phá huỷ, tiêu diệt tuyến phòng ngự phía trước của địch; phát triển tiến công chia cắt đường quốc lộ 1A, hướng cô lập tiêu diệt địch ở Huế, ấp 5, Mỹ Thuỷ, Phú Bài, khi thời cơ phát triển thuận lợi cùng Quân đoàn 2 giải phóng Trị Thiên - Huế. Bộ chỉ huy mặt trận giao thêm cho Trung đoàn 16 các mục tiêu căn cứ Phú Bài, ấp 5, Mỹ Thuỷ gián tiếp chi viện cho bộ binh tấn công.
Các mục tiêu của trung đoàn đảm nhiệm được tính toán kỹ, đưa vào phương án huấn luyện công phu.
Theo phương án: giai đoạn 1 của chiến dịch, trung đoàn chỉ được phép sử dụng loại pháo 85mm, 100mm, 120mm, loại pháo ngoài biên chế bắn vào các mục tiêu quy định của trên. Loại pháo 130mm và Đ74 trong biên chế sẽ được sử dụng vào các đợt tiến công sau của quá trình phát triển chiến dịch.
18 giờ 32 phút ngày 8 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 16 bắn mở màn chiến dịch, tấn công nổi dậy giải phóng Trị Thiên - Huế.
Trận đánh căn cứ Phổ Lại là một trong 3 trận đánh mở đầu then chốt, trên hướng tiến công chiến dịch.
Cứ điểm Phổ Lại nằm trên đỉnh đồi trọc có độ cao 54m, xung quanh bằng phẳng có nhiều cây lúp xúp cao khoảng 1,2m xen kẽ có chỗ sình lầy. Cách 4 km về phía đồng bằng có đường số 1, phía tây có đường 601, phía đông nam là đường 554, phía nam có đường 558. Đường 19-5 từ Tam Dần xuống Củng Cáp chia làm 2 đường nhánh: Một đường xuống Phong Sơn, Cổ Bi, một đường xuống Đồng Lâm. Ở hướng tây bắc Phổ Lại có sông Ô Lâu, tây nam có sông Bồ. Địa hình phía địch cao từ 54m trở xuống, phía ta cao từ 330m trở lên nên ta quan sát dễ.
Cứ điểm phổ Lại do đại đội 4 tiểu đoàn 130 ngụy bảo an đóng giữ từ tháng 1 năm 1973. Đây là cứ điểm phòng ngự trên tuyến giáp ranh, đối diện trực tiếp với tuyến phòng ngự của ta. Lực lượng địch có trên 100 tên phòng ngự trên đỉnh đồi cao 54m có diện tích (200x100m) có 1 lô cốt hỏa điểm, vòng trong là nhà nửa chìm nửa nổi, mái tôn, có bao cát xếp lên trên. Hệ thống hầm, hào sâu 1,2m có nắp bằng cát dày từ 0,5-0,8m. Xung quanh có nhiều lớp mìn vướng nổ, mìn sáng và mìn định hướng. Trong cứ điểm có 1 cối 81mm, 2 cối 61 và 2 đại liên. Xung quanh cứ điểm có các trận địa pháo có 48 đến 60 khẩu cỡ 105-155mm, đồng thời địch có thể huy động lực lượng từ 2 đến 4 tiểu đoàn bộ binh, hoặc thuỷ quân lục chiến hay quân dù có xe tăng yểm trợ để tiến hành phản kích một cách quyết liệt.
Trung đoàn pháo binh 16 (thiếu 1 tiểu đoàn) do đồng chí Lê Siêu - Trung đoàn trưởng chỉ huy triển khai lực lượng trên hướng này cùng với Trung đoàn bộ bình 4 từ đầu năm 1974. Lực lượng Trung đoàn 16 gồm trung đoàn bộ, tiểu đoàn 1 pháo 130mm và Đ74. Do đặc điểm nhiệm vụ phòng ngự kết hợp với chiến đấu tiến công nên tiểu đoàn 1 pháo binh được trang bị bổ sung, số lượng pháo gần gấp đôi. Ngoài 12 khẩu 130 và Đ74 là loại pháo trang bị chính, tiểu đoàn còn được trang bị kiêm nhiệm thêm 2 khẩu 152mm, 2 khẩu 100mm, 2 khẩu 85mm, để sử dụng đánh trận Phổ Lại. Tiểu đoàn pháo cao xạ thuộc Trung đoàn 223 Quân khu được phối thuộc với Trung đoàn 16, trực tiếp bảo vệ đội hình của tiểu đoàn 1 pháo binh. Ngoài trang bị pháo 37mm còn được tăng cường thêm loại 23mm cực nhanh đưa tổng số pháo cối huy động cho hướng Phổ Lại có hơn 100 khẩu với gần 7.000 viên đạn các loại1 (Số đạn cối 69mm có tới 3.360 viên, đạn H12 có 127 viên, riêng đạn 130 và Đ74 đã có 3.000 viên tại trận địa).
Nhiệm vụ của lực lượng tham gia hướng này là tiêu diệt cứ điểm Phổ Lại và giữ vững khu vực đã chìếm, đánh thiệt hại quân địch ra phản kích và đưa lực lượng thọc sâu áp sát đường số 1, hỗ trợ cho lực lượng địa phương, quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp của địch.
Quyết tâm của pháo binh: Chi viện trực tiếp cho bộ binh đánh chiếm cứ điểm Phổ Lại. Chế áp các trận địa pháo của địch ở Hòn Vượn, Thượng An, Hiệp Khánh, An Lỗ, Kiêm Lâm, Đức Tích, Đồng Lâm và Phổ Trạch; chế áp các sở chỉ huy địch ở Đức Tích, Đồng Bồ, Tứ Hạ chi viện cho bộ binh đánh tan các đợt phản kích của địch, đồng thời bảo đảm cho lực lượng thọc sâu áp sát đường số 1.
Tư tưởng chỉ đạo chiến đấu của pháo binh:
- Tập trung ưu thế lực lượng trên hướng chủ yếu, bắn tập trung mãnh liệt phá nát hệ thống công sự địch ngay từ giai đoạn pháo bắn chuẩn bị.
- Táo bạo đưa các loại pháo 85, 57 và cao xạ 37, 23mm vào gần bắn ngắm trực tiếp để nhanh chóng phá hoại các lô cốt hỏa lực địch, bảo đảm cho bộ binh đánh thắng trận đầu của chiến dịch.
- Bí mật mọi hành động, chuẩn bị phần tử chính xác bắn hiệu lực ngay để giành yếu tố bất ngờ.
Lực lượng tăng cường có 1 tiểu đoàn pháo mặt đất, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, pháo trong biên chế có 2 đại đội pháo mặt đất, 1 đại đội pháo cao xạ, đưa lực lượng pháo ở hướng này có 2 tiểu đoàn, 3 đại đội pháo các loại. Sử dụng cho trận đánh 16 khẩu/26 khẩu pháo xe kéo, 14/20 khẩu pháo khiêng vác = 70%, đưa tổng số pháo sử dụng 30 khẩu/46 khẩu pháo huy động được cho trận đánh. Pháo địch sử dụng có 12 khẩu, 16 khẩu pháo xe kéo.
Pháo chi viện đánh trực tiếp cứ điểm có 5 đại đội, chế áp pháo binh và sở chỉ huy địch 2 đại đội, pháo chi viện đánh phản kích tăng cường 1 đại đội Đ74: 4 khẩu.
Trung đoàn đã tổ chức các đài quan sát ở một số điểm như ở núi Cây Tất có 1 đài quan sát của trung đoàn do đồng chí Bích - đại đội trưởng chỉ huy làm đài trưởng.
Ở núi Đức Mẹ có 1 đài do đồng chí tiểu đoàn trưởng phụ trách.
Ở đồi Ông Tre có 1 đài quan sát do đồng chí Lợi - đại đội trưởng phụ trách. 1 tổ trinh sát luồn sâu do đồng chí Thỏa đại đội 1 và 3 bố trí ở nam núi Thế Đại.
Trận địa 100mm bố trí tây nam Phổ Lại 6km.
Trận địa 152mm bố trí trên đường 19-5 cách mục tiêu 9km.
Trận địa pháo Đ74 bố trí nam Củng Cáp cách mục tiêu 14km
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn đọc có thể chèn Ảnh hoặc Video clips trực tiếp bằng cách sao chép URL hình ảnh ( chuột phải vào ảnh gốc lấy URL) rồi dán vào cửa sổ comment. Xin cám ơn.